Việc thu hồi đất của HTX Hồng Tiến

Ngày cập nhật: 04/07/2014
Văn bản kiến nghị của luật sư về việc giải quyết khiếu nại của xã viên Hợp tác xã Nông nghiệp Hồng Tiến về đền bù khi thu hồi đất nông nghiệp thực hiện Dự án xây dựng Khu vực đầm thủy sản Yết Kiêu và Nút giao thông Lê Lợi tại phường Yết Kiêu, TP Hạ Long (Văn bản kiến nghị lần thứ 2)

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI  CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

VPLS THỦ ĐÔ – CTY LUẬT HOÀNG LONG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------*--------- ---------*---------
Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2011

VĂN BẢN KIẾN NGHỊ CỦA LUẬT SƯ 

V/v. Giải quyết khiếu nại của xã viên Hợp tác xã Nông nghiệp Hồng Tiến về đền bù khi thu hồi đất nông nghiệp thực hiện Dự án xây dựng Khu vực đầm thủy sản Yết Kiêu và Nút giao thông Lê Lợi tại phường Yết kiêu, TP Hạ Long (Văn bản kiến nghị lần thứ 2)

 

      Kính gửi  : - Ông Vũ Đức Đam - Uỷ viên Trung ương Đảng

                             Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Quảng Ninh

   - Ông Nguyễn Văn Đọc-Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tỉnh Quảng Ninh 

Chúng tôi là các tổ chức hành nghề luật sư thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội gồm:

1-     Văn phòng luật sư Thủ Đô do Luật sư, Nhà báo Ngô Tất Hữu là Trưởng văn phòng và  

2-    Công ty luật Hoàng Long do Luật sư - Tiến sỹ Phan Thị Hương Thuỷ là Giám đốc

xin gửi các quý Ông Bản kiến nghị của luật sư (lần thứ 2) với nội dung sau:

I-                  Tóm tắt sự việc: 

Ngày 15/6/2011, các luật sư chúng tôi cùng 10 xã viên HTX Nông nghiệp Hồng Tiến được tham dự cuộc họp tiếp dân theo Giấy mời họp số 170/UBND-TD của Văn phòng UBND tỉnh do ông Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì để nghe Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long báo cáo việc giải quyết khiếu nại của xã viên HTX Hồng Tiến về  đền bù khi bị thu hồi đất nông nghiệp theo Quyết định 142/QĐ-UBND ngày 13/1/2009 để giao cho UBND thành phố Hạ Long lập phương án GPMB thực hiện Dự án xây dựng đầm thủy sản Yết Kiêu và Nút giao thông Lê Lợi tại phường Yết kiêu, thành phố Hạ Long.

Cuộc họp có sự tham dự của các vị lãnh đạo Sở, ngành, Công an tỉnh, Thanh tra tỉnh, Tài nguyên và Môi trường, đại diện Đoàn luật sư tỉnh và được UBND tỉnh giao chuẩn bị các nội dung có liên quan để giải quyết các vấn đề nêu trong đơn khiếu nại của các xã viên HTX Hồng Tiến.

Ngay ngày hôm sau chúng tôi được xã viên HTX Hồng Tiến cho biết báo điện tử của tỉnh Quảng Ninh đã đưa tin về cuộc họp tiếp dân nói trên với nội dung:

- Theo báo cáo của UBND thành phố Hạ Long, căn cứ vào các tài liệu từ năm 1960 do HTX Hồng Tiến cung cấp, căn cứ Luật đất đai và các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật đất đai thì UBND thành phố Hạ Long lập phương án bồi thường GPMB với đối tượng hỗ trợ là HTX Hồng Tiến chứ không phải là các xã viên.

- Đại diện lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường, Thanh tra, Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ninh cũng đồng quan điểm với việc việc lập phương án bồi thường GPMB của UBND  thành phố Hạ Long .

- Phát biểu kết luận của ông Chủ tịch tỉnh khẳng định đối tượng và lập phương án bồi thường GPMB trong việc khiếu nại của HTX Hồng Tiến đã được UBND thành phố Hạ Long thực hiện đúng luật định. Tuy nhiên nhằm đảm bảo các hộ xã viên ổn định đời sống, ông Chủ tịch tỉnh giao UBND thành phố Hạ Long lập và báo cáo tỉnh phương án hỗ trợ đối với xã viên HTX Hồng Tiến.

Chúng tôi được biết: Ngày 19/6/2011  61 hộ xã viên HTX Hồng Tiến tiếp tục gửi đơn khiếu nại lên Quý ông với nội dung cho rằng buổi làm việc ngày 15/6/2011 không đúng với tinh thần chỉ đạo của đồng chí Bí thư tỉnh uỷ, chưa đúng pháp luật, mang tính hình thức áp đặt, chưa phải là buổi đối thoại dân chủ tôn trọng lắng nghe ý kiến của dân. Kết luận khi kết thúc buổi làm việc của ông chủ toạ là thiếu  khách quan, thể hiện quan điểm vẫn cố tình bảo vệ việc giải quyết trái pháp luật của UBND TP Hạ Long, chưa chấp nhận ra quyết định giải quyết khiếu nại chấp nhận bồi thường hỗ trợ cho các hộ dân theo quy định của pháp luật  (xin gửi kèm theo đơn của 61 hộ xã viên). 

II-              Nhận xét của luật sư chúng tôi về cuộc họp ngày 15/6/2011 về giải quyết khiếu nại của các xã viên HTX Hồng Tiến:

Tuy được tỉnh báo mời họp trong thời gian gấp rút nhưng hai luật sư chúng tôi cũng đã được tham gia trực tiếp từ đầu cuộc họp và xin có nhận xét như sau:

Thứ nhất:  Căn cứ điều 43 Luật khiếu nại tố cáo sửa đổi quy định: “Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai không quá 45 ngày kể từ ngày thụ lý để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 60 ngày” (khoản 1). Chúng tôi nhận thấy việc Chủ tịch UBND tỉnh chưa ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại đối với các khiếu nại của 61 hộ xã viên HXT Hồng Tiến không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại của UBND thành phố Hạ Long là trái với quy định của Luật khiếu nại tố cáo vì đã quá thời hạn giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của mình.

Việc ông Chủ tịch chỉ đạo thành phố Hạ Long lập phương án bổ sung thêm cho các xã viên khoản hỗ trợ ổn định đời sống cũng vẫn thiếu, chưa đủ, chưa đúng với quy định của Luật đất đai về bồi thường đối với những người đang sử dụng đất bị thu hồi  và sẽ kéo dài thêm thời gian chờ đợi của 61 hộ xã viên với 400 nhân khẩu-những người sử dụng đất trực tiếp đã không còn tư liệu sản xuất từ năm 2009, hiện nay hoàn cảnh sống của họ vô cùng khó khăn.

Thứ hai:

Căn cứ điều 45 Luật khiếu nại tố cáo sửa đổi quy định: “ Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, người giải quyết khiếu nại khiếu nại có thể gặp gỡ, đối thoại  trực tiếp với người khiếu nại và người bị khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại. Trong trường hợp người khiếu nại nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật thì luật sư có quyền tham gia vào quá trình giải quyết khiếu nại” (khoản 1).

Sau khi kết thúc cuộc họp kéo dài gần 4 tiếng sau nhiều phát biểu của hai luật sư với những viện dẫn các quy định của Luật đất đai, các văn bản dưới luật thi hành,  Luật Hợp tác xã, việc ông Chủ tịch tỉnh vẫn kết luận UBND Thành phố Hạ Long đã thực hiện phương án đền bù đúng luật, không xem xét khiếu nại của 61 hộ xã viên cũng như văn bản kiến nghị của 2 luật sư bảo vệ cho xã viên là thiếu khách quan cụ thể:

Tại cuộc họp các luật sư chúng tôi đã đưa ra các căn cứ và quy định pháp luật (Luật đất đai và Luật Hợp tác xã) để chứng minh các xã viên mới là đối tượng được bồi thường vì thuộc quy định tại khoản 6 điều 8 Nghị định 197/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ và việc HTX chia đất đầm ao cho các xã viên sử dụng nuôi trồng cá là phù hợp với Điều lệ HTX và Luật Hợp tác xã, không trái với Luật đất đai vì nguồn gốc đất này không phải do Nhà nước giao mà do xã viên tự khai hoang từ những năm 1960 và góp vào HTX thành vốn hoạt động và tài sản của HTX.

Đồng thời HTX cũng đã cung cấp chứng cứ mới chứng minh các xã viên là người trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích vào thời điểm bị thu hồi đất bao gồm các tài liệu: Nội quy tổ nuôi trồng thủy sản ao cá số I  của HTX Hồng Tiến, Hạ Long thông qua ngày 30/12/2003; Danh sách xã viên của 2 tổ thủy sản ao cá số I, Biên bản họp tổ cá số 2 ngày 25/12/2003, các Bảng kê nộp sản lượng bằng tiền cho HTX của hai tổ từ năm 2004 đến năm 2008 (năm 2009 toàn bộ số đất đầm ao mà 61 hộ xã viên được chia theo Biên bản giao khoán diện tích đất đầm ao đến tận từng hộ xã viên để thả cá ngày 2/11/2003 bị Nhà nước thu hồi nên không có sản lượng).

Chứng cứ mới cung cấp này hoàn toàn phù hợp với xác nhận của UBND phường Yết kiêu –nơi có đất bị thu hồi tại Văn bản số , xác nhận việc HTX sử dụng mặt đất đầm ao để nuôi trồng thủy sản là đúng mục đích, xác nhận đất được sử dụng từ trước ngày 15/10/1993 và không có tranh chấp với ai nên họ là đối tượng được bồi thường đất.

Còn phía UBND thành phố Hạ Long vẫn chỉ dựa vào những thông tin, lập luận đã sử dụng giải quyết khiếu nại trước đây, không cung cấp thêm bằng chứng gì mới và cũng không có ý kiến gì đối với các tài liệu mà bên khiếu nại đưa ra.

Thứ ba: Căn cứ điều 1 Luật Hợp tác xã năm 2003 quy định: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cấu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định này ....Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật”. Tại khoản 1 điều 3 đã quy định các chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã như: “ Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để hợp tác xã phát triển, Tôn trọng quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu trách nhiệm của hợp tác xã trong sản xuất kinh doanh; Không can thiệp vào công việc quản lý nội bộ và hoạt động hợp pháp của hợp tác xã”.

Chúng tôi thấy khi giải quyết khiếu nại của xã viên HTX Hồng Tiến UBND thành phố Hạ Long và đại diện các ban ngành của tỉnh chỉ vận dụng các điều luật đất đai để bảo vệ quan điểm lập phương án bồi thường GPMB cho HTX Hồng Tiến là chưa đầy đủ. Việc chưa chú ý đến tư cách chủ thể đặc biệt của HTX Hồng Tiến –là tổ chức kinh tế tập thể có tư cách pháp nhân, được tự chủ trong sản xuất kinh doanh theo quy định của Luật hợp tác xã và Điều lệ HTX, tư cách xã viên của 61 hộ xã viên –là những người đã góp vốn bằng quyền sử dụng đất do tự khai hoang, góp sức để tham gia sản xuất kinh doanh là nguyên nhân dẫn đến việc xác định đối tượng được bồi thường là HTX – với tư cách chỉ là 1 thực thể pháp lý không phải là cá nhân trực tiếp khai thác, sử dụng đất đúng mục đích . 

III-Sau đây là những lập luận của luật sư trên cơ sở các quy định của Luật đất đai và Luật Hợp tác xã:

1. Về áp dụng pháp luật:

Căn cứ điều 3 Luật đất đai quy định: “ Việc quản lý và sử dụng đất đai phải tuân theo quy định của Luật này. Trường hợp Luật này không quy định thì áp dụng các quy định của pháp luật khác có liên quan”.

Căn cứ khoản 3 điều 3 Luật Hợp tác xã quy định: “ Đối với hợp tác xã nông nghiệp, Chính phủ quy định cụ thể chính sách ưu đãi phù hợp với đặc thù và trình độ phát triển từng thời kỳ”.

 Theo chúng tôi để xác định các xã viên HTX Hồng Tiến và bản thân HTX Hồng Tiến, là đối tượng được bồi thường đất khi bị thu hồi toàn bộ đất còn lại (sau 8 lần chính quyền địa phương thu hồi đất đến năm 2009 thì HTX Hồng Tiến không còn đất), ngoài Luật đất đai và các văn bản dưới luật, phải vận dụng cả Luật Hợp tác xã, Điều lệ HTX Hồng Tiến ngoài ra còn áp dụng Nghị quyết của TW 10 về giao khoán đất đai trong nông nghiệp.

2. Về những vấn đề đã thống nhất trong cuộc họp:

*Nguồn gốc đất bị thu hồi: Là do các xã viên tự khai hoang từ năm 1960 và góp vào thành lập HTX Hồng Tiến. Năm 1989 được vào sổ địa chính tờ bản đồ số 01 của phường Trần Hưng Đạo, Thị xã Hòn Gai nay là thành phố Hạ Long do HTX Hồng Tiến đứng tên và HTX là người nộp thuế đất cho đến năm 2003 khi Nhà nước bãi bỏ việc thu thuế đối với đất đầm ao.

* Qúa trình sử dụng đất: Là nhằm mục đích nuôi trồng thủy sản, năm 2003 HTX đã chia cho 61 hộ xã viên để thả cá, hàng quý đánh bắt cá và giao nộp sản lượng theo quy định của HTX và tự nuôi sống gia đình. Tại văn bản số 37 ngày 27/8/2009 đất được UBND phường Yết Kiêu xác nhận là sử dụng đúng mục đích, không có tranh chấp.

* Vào thời điểm bị thu hồi thì các hộ xã viên là người trực tiếp sử dụng đất để thả cá vì năm 2003 HTX đã có Biên bản chia đất đầm ao theo hình thức khoán cho 61 hộ xã viên quản lý. UBND thành phố Hạ Long cũng như đại diện các ban ngành của tỉnh không công nhân giá trị pháp lý của Biên bản này và cho là phải có quyết định giao đất của UBND tỉnh theo quy định của Nghị định 64/CP năm 1993

* Năm 1999 theo chỉ đạo của UBND thị xã Hòn Gai, HTX đã tiến hành kiểm kê số đất đang quản lý trong đó có 4,9ha đất đầm ao với mục đích để thả cá. HTX cũng đã có kê khai để được cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. Nhưng cho đến nay  vẫn chưa được tỉnh xem xét giải quyết nên việc vào thời điểm bị thu hồi HTX không có quyết định giao đất hay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc lỗi của UBND UBND thành phố Hạ Long.

3.Các quy định pháp luật áp dụng trong trường hợp này:

Để chứng minh đối tượng được bồi thường bao gồm 2 chủ thể: 1) HTX Hồng Tiến-chủ sử dụng đất có tên trong bản đồ địa chính từ năm 1989 và đồng thời là người quản lý 43,546,9m2 đất đầm ao để nuôi trồng thủy sản và 2) các hộ xã viên –là người đang trực tiếp sử dụng đất mỗi người 860m2 đất đầm ao mà đã được HTX chia theo khoán 10 trong nông nghiệp theo “Biên bản họp xã viên HTX Hồng Tiến Về việc : Giao khoán đất ao nuôi trồng thủy sản tới từng hộ xã viên” ngày 2/11/2003, sử dụng để thả cá đóng góp nộp sản lượng cho HTX cho đến khi bị thu hồi đất toàn bộ vào năm 2009 để thực hiện dự án nút giao thông Lê Lợi và hồ điều hòa phường Yết Kiêu, theo chúng tôi cần vận dụng các quy định pháp luật sau đây:

Theo quy định tại điều 9 Luật đất đai năm 2003 thì người sử dụng đất được hiểu là tổ chức kinh tế như HTX Hồng Tiến, hộ gia đình, cá nhân (cụ thể là các hộ xã viên của HTX Hồng Tiến).

-         Đối với HTX Hồng Tiến

Việc HTX được đứng tên trong bản đồ địa chính là một trong các loại giấy tờ về sử dụng đất ổn định theo quy định tại khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 và quy định tại điểm i khoản 2 NĐ 87/2007/NĐ-CP.

Căn cứ điểm a khoản 1 điều 53 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 hướng dẫn thi hành Luật đất đai quy định điều kiện để cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất đối với đất do các xã viên góp vào hợp tác xã đang sử dụng đúng mục đích thì được UBND thành phố Hạ Long (nơi có đất) cho tiếp tục sử dụng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở báo cáo của HTX tự rà soát, kê khai việc sử dụng đất và báo cáo với UBND tỉnh, thành phố thuộc Trung ương nơi có đất.

Căn cứ Biên bản kiểm kê diện tích đất nông nghiệp HTX Hồng Tiến lập ngày 20/4/1999 với sự tham gia của Phòng kinh tế thành phố Hạ Long, UBND phường Yết Kiêu, Phòng địa chính thành phố Hạ Long, UBND phường Trần Hưng Đạo và HTX Hồng Tiến cho thấy đất đầm ao để nuôi trồng thủy sản mà HTX quản lý có diện tích 5,98ha, sau khi kiểm kê diện tích thực tế là 49,454,9m2 (giảm 1,03ha) thể hiện trên bản đồ đất nông nghiệp HTX Hồng Tiến để làm cơ sở lập bộ thuế nông nghiệp và lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của HTX. Như vậy với tài liệu này thể hiện HTX đã thực hiện đúng việc tự rà soát, kiểm kê báo cáo UBND cấp có thẩm quyền.

Việc UBND cấp có thẩm quyền vẫn cho HTX tiếp tục sử dụng để nuôi trồng thủy sản số đất do các xã viên góp vào HTX là phù hợp với khoản 3 điều  97 Nghị định 181 quy định: “ Tổ chức đang sử dụng đất nông nghiệp do tự khai hoang thì việc công nhận quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định tại điều 49 của Nghị định này”, cụ thể theo trình tự như sau:

-         HTX tự rà soát, kê khai việc sử dụng đất báo cáo UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có đất

-         HTX lập nội dung quy hoạch chi tiết sử dụng đất: diện tích từng loại định giữ lại để sử dụng, phương án sử dụng đất, diện tích đất, thời hạn sử dụng đất

-         UBND UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có đất xét duyệt quy hoạch chi tiết việc sử dụng đất của tổ chức sử dụng đất tại địa phương

-         Căn cứ vào quy hoạch chi tiết sử dụng đất, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có đất quyết định giao đất, cho thuê đất đối với diện tích đất mà tổ chức được giữ lại để sử dụng

Như vậy từ năm 1999 cho đến thời điểm bị thu hồi mà UBND thành phố Hạ Long không ban hành quyết định hành chính về giao đất cho HTX sử dụng và chưa công nhận quyền sử dụng đất cho HTX là trái với quy định của pháp luật về đất đai và đã dẫn đến hậu quả làm thiệt hại cho HTX và các hộ xã viên không được bồi thường hỗ trợ khi bị thu hồi đất.

-  Đối với các hộ xã viên:

- Căn cứ “Biên bản họp xã viên HTX Hồng Tiến Về việc : Giao khoán đất ao nuôi trồng thủy sản tới từng hộ xã viên” ngày 2/11/2003 có nội dung việc HTX họp chia cho 61 hộ dân mỗi hộ được 860m2 đất để nuôi trồng thủy sản là “căn cứ vào Nghị quyết, chỉ đạo của Chi bộ HTX và thống nhất của hội nghị xã viên hôm nay” thể hiện Biên bản này có giá trị theo tinh thần của Nghị quyết số X Bộ Chính trị quy định HTX có quyền giao khoán ruộng đất cho xã viên/hộ xã viên sản xuất khai thác và hoàn toàn phù hợp với Luật Hợp tác xã do Nhà nước ban hành (năm 1996, 2003). Ngoài ra còn phù hợp với Điều lệ của HXT thể hiện tại các điều sau:

Tại điều 6 quy định ngành nghề sản xuất của HTX là “ sản xuất các loại rau xanh và chăn nuôi cá”. Điều 4.2 quy định quyền của HTX “ HTX có quyền quyết định hình thức và cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTX”. Điều 5.4 quy định nghĩa vụ của HTX: “ HTX có nghĩa vụ quản lý sử dụng đất được Nhà nước giao quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”.

Căn cứ điều 42 Luật đất đai năm 2003 quy định về điều kiện bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi đất là:

-         Người bị thu hồi đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc

-         Đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại điều 50  của Luật này và

-         Không thuộc các trường hợp không được bồi thường (quy định tại các khoản 2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12 điều 38 và các điểm b.c,d,đ,g khoản 1 điều 43 Luật đất đai).

Căn cứ vào các tài liệu do chính quyền thành phố Hạ Long và HTX Hồng Tiến cung cấp thì các xã viên HTX Hồng Tiến không thuộc các trường hợp không được bồi thường như nêu trên và có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 4 điều 50.

Điều này quy định như sau: “ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 điều này nhưng đất dã được sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác  nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã xét duyệt thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.

Đối với việc HTX chia đất đầm ao cho các hộ xã viên mỗi người được 860m2 để nuôi trồng thủy sản theo Biên bản chia đất ngày 2/11/2003 thì quan điểm của UBDN thành phố Hạ Long cũng như các đại diện ban ngành của tỉnh không công nhận vì cho là trái với Luật đất đai .

Quan điểm của luật sư chúng tôi thì cho rằng việc chia như vậy là đúng Luật đất đai. Căn cứ khoản 2 điều 107 Nghị định 101 quy định: “ Đất do xã viên góp quyền sử dụng vào hợp tác xã thì Nhà nước không thu hồi đất đó ( khi hợp tác xã giải thể hoặc phá sản), quyền sử dụng đất là tài sản của hợp tác xã và được xử lý theo điều lệ của hợp tác xã hoặc Nghị quyết của Đại hội xã viên”.

Quy định trên đây phù hợp với Điều lệ HTX Hồng Tiến cụ thể điều 2.3 , 4.2, 17.1, 18.1.

Vì HTX được thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã nên các quy định của Luật hợp tác xã cũng được áp dụng với tư cách là luật chuyên ngành riêng. Căn cứ Luật Hợp tác xã quy định khi gia nhập hợp tác xã các xã viên phải góp vốn vào hợp tác xã bao gồm cả quyền sử dụng đất đất (điều 4 khoản 1, điều 31 khoản 1). Do đó diện tích đất đầm ao bị thu hồi có nguồn gốc do các xã viên tự khai hoang góp vào hợp tác xã tạo nên vốn của hợp tác xã (điều 4 khoản 3 Luật Hợp tác xã và điều 21.1 Điều lệ HTX). Theo quy định tại điều 35 Luật hợp tác xã thì giá trị quyền sử dụng đất này là tài sản của hợp tác xã và là vốn hoạt động của HTX và HTX có quyền tự chủ, tự định đoạt quyết định hình thức sử dụng, quản lý cùng hưởng lợi nhuận theo quy định của Điều lệ HTX và quy định pháp luật có liên quan. Theo quy định tại khoản 10, 11 điều 18 Luật hợp tác xã thì xã viên được quyền xin ra khỏi HTX xã viên và được trả lại vốn là quyền sử dụng đất đã góp khi vào hợp tác xã.

Do đó việc HTX họp chia khoán cho các hộ xã viên mỗi hộ 860m2 để nuôi trồng thủy sản là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật . Tại điều 3 Luật hợp tác xã đã quy định rõ chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã là “ Tôn trọng quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu trách nhiệm của hợp tác xã trong sản xuất, kinh doanh”(điểm đ khoản 1).

Căn cứ điểm c khoản 11 điều 8 Nghị định 197 ngày 3/12/2004 thì HTX Hồng Tiến cũng là đối tượng được bồi thường khi bị thu hồi toàn bộ đất canh tác vì đất bị thu hồi có nguồn gốc hợp pháp từ hộ xã viên tự khai hoang góp vào (đã được UBND phường Yết Kiêu xác nhân nguồn gốc).

Căn cứ các trường hợp HTX giải thể theo quy định tại 42 Luật hợp tác xã (giải thể tự nguyện và giải thể bắt buộc) thì HTX không muốn giải thể và cũng không thuộc các trường hợp bị bắt buộc giải thể như luật quy định nên căn cứ vào khoản 2 điều 42 Luật đất đai quy định nguyên tắc bồi thường cho người có đất bị thu hồi là : “ Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi”

Tại cuộc họp ngày 15/6/2011 phía chính quyền tỉnh cũng có ý kiến giao lại cho HTX quản lý hơn 3,2 ha đất đầm ao thuộc hồ điều hòa sau khi đã cải tạo để HTX khỏi lâm vào cảnh buộc phải giải thể vì không còn đất để hoạt động sản xuất kinh doanh 

IVKiến nghị của luật sư :

Căn cứ các quy định của Luật đất đai, Luật hợp tác xã, Nghị quyết 10 của TƯ và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai, chúng tôi xin kiến nghị với lãnh đạo UBND tỉnh Quảng Ninh cụ thể như sau:

1.                 Xác định cả HTX Hồng Tiến và 61 hộ xã viên là đối tượng bồi thường về đất khi thu hồi đất, tạo điều kiện cho cả HTX được tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh, riêng 61 hộ xã viên ngoài bồi thường còn được hỗ trợ theo quy định của pháp luật để ổn định đời sống, chuyển đổi nghề nghiệp.

2.                 Việc HTX Hồng Tiến cho đến thời điểm bị thu hồi chưa được Nhà nước ban hành các quyết định hành chính giao đất và công nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc tự khai hoang mà có, sử dụng ổn định đúng mục đích, không tranh chấp là thuộc lỗi của UBND các cấp tại tỉnh Quảng Ninh. Căn cứ điều 141 và điều 142 Luật đất đai năm 2003 quy định người nào làm trái quy định của luật đất đai gây thiệt hại cho HTX và các xã viên phải bị xử lý và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

3.                 Trong trường hợp UBND tỉnh không chấp nhận yêu cầu đền bù và hỗ trợ cho từng hộ xã viên như luật định, chúng tôi đề nghị UBND tỉnh sớm ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo để các xã viên có quyền khiếu nại lên cấp trên. 

Trên đây là kiến nghị của 02 tổ chức luật sư chúng tôi, rất mong được quý Ông xem xét.

Xin trân trọng cảm ơn.

 

                 VĂN PHÒNG LUẬT SƯ THỦ ĐÔ                             CÔNG TY LUẬT TNHH HOÀNG LONG

          Trưởng Văn phòng                                                                    Giám đốc

             LS. Ngô Tất Hữu                                                      LS. Phan Thị Hương Thủy