Quan điểm luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông Nguyễn Tuấn Thiệp trong vụ án kiện quyết định hành chính của UBND quận Hai Bà Trưng

Ngày cập nhật: 04/07/2014
Tôi là luật sư Phan Thị Hương Thủy thuộc Công ty luật TNHH Hoàng Long xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền lợi cho ông Nguyễn Tuấn Thiệp-người khởi kiện trong vụ án hành chính xin hủy Quyết định số 3637 của UBND quận Hai Bà Trưng

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập-Tự do-Hạnh phúc

-------------*--------------

QUAN ĐIỂM BẢO VỆ QUYỀN LỢI

CHO ÔNG NGUYỄN TUẤN THIỆP TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH CỦA UBND QUẬN HAI BÀ TRƯNG

Kính thưa HĐXX sơ thẩm

Tôi là luật sư Phan Thị Hương Thủy thuộc Công ty luật TNHH Hoàng Long xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền lợi cho ông Nguyễn Tuấn Thiệp-người khởi kiện trong vụ án hành chính xin hủy Quyết định số 3637 của UBND quận Hai Bà Trưng như sau:

1.     Đối tượng hành chính bị khởi kiện:

Ngày 16/9/2013 UBND quận Hai Bà Trưng ban hành Quyết định số 3637/QĐ-UBND do Phó Chủ tịch Lâm Anh Tuấn ký có nội dung:

Điều 1: “Thu hồi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10107193235 ngày 28/12/2002 đã cấp cho ông Nguyễn Tuấn Thiệp tại địa chỉ số 68B tổ 28B phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng.

Lý do thu hồi:  Theo kết quả kiểm tra, xác minh tại báo cáo số 50/BC-TT ngày 18/6/2013 của Thanh tra quận Hai Bà Trưng đã kết luận: “Quá trình xét cấp giấy chứng nhận cho ông Nguyễn Tuấn Thiệp tại địa chỉ số 68B tổ 28B phường Thanh Lương có sai phạm, không đúng quy định được ban hành theo Quyết định số 69/1999/QĐ-UB ngày 18/8/1999 của UBND thành phố Hà Nội về nguồn gốc đất, thời điểm sử dụng nhà đất, điều kiện được xét cấp giấy chứng nhận và trình tự quy định về xét cấp giấy chứng nhận”.

Điều 2: Giao Phòng Tài nguyên và Môi trường thông báo nội dung quyết định này và yêu cầu ông Nguyễn Tuấn Thiệp nộp lại bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở nêu trên. Nếu trong thời hạn 10 ngày (mười ngày) kể từ ngày nhận được thông báo mà ông Nguyễn Tuấn Thiệp không nộp lại bản chính quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở được thu hồi theo quyết định này, Văn phòng đăng ký đất và nhà có trách nhiệm ban hành thông báo hủy và chấm dứt giao dịch đối với giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đứng tên ông Nguyễn Tuấn Thiệp nêu trên, gửi tới các cơ quan chức năng có liên quan được biết.

Điều 3: Giao UBND phường Thanh Lương:

Phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường thực hiện việc tống đạt quyết định và thông báo về việc thu hồi giấy chứng nhận cho ông Nguyễn Tuấn Thiệp biết để thực hiện.

Hướng dẫn ông Nguyễn Tuấn Thiệp kê khai lại nhà ở đất ở; phân loại, xét duyệt trình UBND quận cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo đúng quy định pháp luật”.

Căn cứ QĐ nêu trên ngày 20/9/2013 Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Hai Bà Trưng đã ra Thông báo số 442/TB-TN&MT với các nội dung:

-Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10107193235 ngày 28/12/2002 cấp ông Nguyễn Tuấn Thiệp tại địa chỉ số 68B tổ 28B phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng đã bị thu hồi theo Quyết định số 3637/QĐ-UB ngày 16/9/2013 của UBND quận.

-Đề nghị ông Thiệp nộp lại bản gốc giấy chứng nhận trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo này.

-Sau đó đề nghị ông Thiệp liên hệ với UBND phường Thanh Lương để thực hiện việc kê khai lại nhà ở đất ở, làm cơ sở đê UBND phường Thanh Lương xét duyệt, trình UBND quận Hai Bà Trưng cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo đúng quy định pháp luật.

Nếu hết thời hạn nêu trên mà ông Thiệp không nộp lại bản chính giấy chứng nhận theo yêu cầu, Phòng Tài nguyên và Môi trường và Văn phòng đăng ký đất và nhà quận Hai Bà Trưng sẽ thông báo chấm dứt hiệu lực và hủy giấy chứng nhận đã cấp cho ông Thiệp.

Hiện nay QĐ nêu trên đã có hiệu lực, Văn phòng đăng ký nhà đất quận HBT đã ra thông báo chấm dứt hiệu lực của giấy chứng nhận QSH nhà và QSD đất ở đã cấp cho ông Thiệp.

2.     Về thẩm quyền giải quyết của tòa án.

Quyết định hành chính bị khởi kiện là Quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại địa chỉ 68B tổ 28B phường Thanh Lương quận Hai Bà Trưng của ông Nguyễn Tuấn Thiệp do UBND quận Hai Bà Trưng cấp theo sự ủy quyền của UBND thành phố Hà Nội năm 2002.

Việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho người sử dụng đất là một trong những nội dung trong lĩnh vực quản lý đất đai của cơ quan hành chính.

Căn cứ khoản 1 điều 28, khoản 1 điều 29 Luật tố tụng hành chính Tòa án Nhân dân quận Hai Bà Trưng có thẩm quyền giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Thiệp.

3. Quan điểm của luật sư về tính hợp pháp của yêu cầu khởi kiện đối với Quyết định 3637/QĐ-UBND ngày 16/9/2013 của UBND quận Hai Bà Trưng.

Vì giấy chứng nhận QSD đất là chứng thư pháp lý của Nhà nước cấp cho người sử dụng đất để công nhận việc sử dụng đất hợp pháp của họ. Như vậy đối với vụ án hành chính yêu cầu hủy quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp cần dựa vào các văn bản luật nội dung về pháp luật đất đai để xác định tính không hợp pháp của quyết định về thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ thu hồi.

1. Về thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

          Căn cứ khoản 2 điều 25 NĐ 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất  quy định việc thu hồi GCNQSD đất đã cấp trái pháp luật được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp GCNQSD đất.

          Việc xác định thẩm quyền cấp GCNQSD đất được quy định tại điều 52 Luật đất đai năm 2003 như sau:

“1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài.

2. Uỷ ban nhan dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở.

Như vậy Thẩm quyền thu hồi GCNQSD đất thuộc về Uỷ ban nhân dân theo quy định của Luật đất đai.

Tôi cho rằng UBND quận HBT không có thẩm quyền quyết định thu hồi giấy chứng nhận của ông Thiệp vì:

-Thời điểm cấp Giấy chứng nhận cho ông Thiệp là năm 2002 khi Luật đất đai năm 1993, có hiệu lực quy định thẩm quyền ký duyệt để cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình và cá nhân sử dụng các loại đất thuộc nội thành phố là UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực từ 1/7/2004 mới quy định thẩm quyền UBND cấp quận, huyện cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân).

- Giấy chứng nhận ngày 28/12/2002 của ông Thiệp do UBND quận Hai Bà Trưng cấp trên cơ sở thừa ủy quyền của UBND thành phố Hà Nội .

Vì vậy việc UBND quận Hai Bà Trưng ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận của ông Thiệp là không đúng thẩm quyền theo quy định của luật Đất đai.

          2. Trình tự  thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý quan trọng  công nhận quyền sử dụng đất của người sử dụng đất nên việc thu hồi nó phải tuân theo trình tự thủ tục nghiêm ngặt để tránh việc thu hồi giấy chứng nhận đã cấp 1 cách tùy tiện làm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sử dụng đất.

Tuy trong QĐ3637 chỉ nêu căn cứ thu hồi là theo khoản 2 điều 25 NĐ88 (điều luật này quy định 3 trường hợp thu hồi) nhưng tại phiên tòa vị đại diện của UBND quận HBT thừa nhận việc thu hồi giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Thiệp là theo điểm a khoản 2 điều 25 NĐ 88 nên luật sư chỉ phân tích đối với điều luật này để chứng minh trình tự thu hồi là không đúng như sau:

Điểm a khoản 2 điều 25 quy định trình tự thu hồi giấy chứng nhận như sau:

Trường hợp Giấy Chứng nhận đã cấp mà có văn bản của có quan điều tra, cơ quan thanh tra kết luận là Giấy Chứng nhận đã cấp trái với quy định của pháp luật thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy Chứng nhận có trách nhiệm xem xét, nếu kết luận đó là đúng thì thì ra quyết định thu hồi giấy Chứng nhận đã cấp”.

Sau đây là phân tích của luật sư QĐ 3637 ban hành không đúng trình tự thủ tục theo luật định.

  Căn cứ điểm a khoản 2 điều 25 NĐ88 thì thấy để ra QĐ thu hồi giấy CN đã cấp cần phải thỏa mãn các điều kiện. Trước hết phải có văn bản của cơ quan điều tra hoặc của cơ quan thanh tra và nội dung là kết luận là giấy chứng nhận đã cấp trái với quy định của pháp luật (điều kiện cần). Sau đó Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy CN có trách nhiệm xem xét lại việc cấp giấy chứng nhận và nếu xác định kết luận của cơ quan điều tra/hoặc thanh tra đó là đúng thì lúc đó mới đến bước ra QĐ thu hồi giấy chứng nhận đã cấp .

Đối chiếu vào QĐ3637 thì thấy việc UBND quận Hai Bà Trưng ban hành QĐ này theo trình tự:

Ngày 13/3/2013 UBND quận Hai Bà Trưng ban hành Công văn số 242/UBND-TNMT để giao cho Thanh tra quận kiểm tra xác minh việc xét cấp giấy chứng nhận đối với gia đình ông Thiệp tại địa chỉ số 68B, tổ 28B phường Thanh Lương. Lý do là có Công văn số 76/VP-TD ngày 28/3/2013 của Văn phòng Hội đồng nhân dân –UBND quận Hai Bà Trưng đề nghị Thanh tra quận xem xét đơn kêu cứu khẩn cấp đề ngày  28/3/2013 của bà Trịnh Thị Mai ở địa chỉ số 54 tổ 28A phường Thanh Lương đề nghị sớm thu hồi đất cống thoát nước công cộng đã bị gia đình bà Đoàn Thị Tuyết và ông Nguyễn Tuấn Thiệp xây nhà đè lên ở trong khuôn viên đất nhà ông Thiệp làm cho nhà bà bị úng ngập, UBND quận HBT đã giao cho Thanh tra quận kiểm tra xem xét việc cấp giấy chứng nhận của gia đình ông Thiệp. Thanh tra quận giao nhiệm vụ cho thanh tra viên Thành thực hiện việc kiểm tra lại quá trình cấp giấy chứng nhận.

Ngày 18/6/2013 Thanh tra quận HBT ban hành Báo cáo số 50/BC-TT báo cáo kết quả kiểm tra, xác minh việc xét cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở (GCN) đối với ông Nguyễn Tuấn Thiệp địa chỉ số 68B, tổ 28B phương Thanh Lương và việc giải quyết đơn của công dân liên quan đến rãnh thoát nước của một số hộ dân tổ 28A và 28B phường Thanh Lương.

Căn cứ vào kết luận này UBND quận HBT ban hành QĐ3637 thu hồi giấy chứng nhận đã cấp cho ông Thiệp là không đúng trình tự thủ tục theo quy định của điểm a khoản 2 điều 25 NĐ88.

Trình tự thu hồi giấy chứng nhận của ông Thiệp thể hiện bằng việc ban hành QĐ3637 như phân tích ở trên là không đúng luật định.

Tại phiên tòa đại diện UBND quận HBT đã thừa nhận nguồn gốc sâu xa của việc UBND quận ban hành QĐ thu hồi giấy chứng nhận đã cấp từ năm 2002 của ông Thiệp là do có đơn khiếu nại của bà Trịnh Thị Mai (hàng xóm ở phía Nam thửa đất của ông Thiệp ) về tranh chấp về đường thoát nước thải trong diện tích đất của ông Thiệp đã được cấp giấy chứng nhận thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 5 điều 25 BLTTDS.

Việc UBND quận Hai Bà Trưng giải quyết loại việc tranh chấp về cống thoát nước và quyền sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận là sai về thẩm quyền. Theo quy định của pháp luật UBND chỉ làm thủ tục hòa giải theo điều 135 Luật đất đai và hướng dẫn người khiếu nại thực hiện việc khởi kiện đến Toà án nhân dân để được vụ việc được giải quyết đúng thẩm quyền.

Căn cứ khoản 3 điều 25 Nghị định 88 việc thu hồi giấy chứng nhận của gia đình ông Thiệp  thì phải căn cứ vào bản án  đã có hiệu lực pháp luật của tòa án (xác định có diện tích đất cống thoát nước thải chung mà bà Mai đang sử dụng trong diện tích đất được cấp giấy chứng nhận của gia đình ông Thiệp và tòa án phải kết luận việc cấp giấy chứng nhận bao gồm cả diện tích có cống thoát nước chung là trái pháp luật).

Do đó QĐ 3637 ban hành không căn cứ vào bản án của Tòa án giải quyết quan hệ pháp luật về cống thoát nước chung trong diện tích đất tư nhân là không đúng trình tự luật định và trái với khoản 3 điều 42 Nghị định 181/2004/NĐ-CP về thi hành Luật đất đai quy định:  “Trường hợp đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thì việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân đã được thi hành trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”.

3.     Căn cứ thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Căn cứ để UBND quận HBT quyết định thu hồi giấy chứng nhận của ông Thiệp là dựa vào kết luận số 50 của Thanh tra quận HBT và có 2 căn cứ để thu hồi giấy chứng nhận của ông Thiệp.

+ Lý do thứ nhất: Xin trích toàn văn:

“Thực hiện công văn số 242/UBND-TNMT ngày 13/3/2013 của UBND quận HBT giao Thanh Tra quận kiểm tra xác minh việc xét cấp GCN đối với ông Nguyễn Tuấn Thiệp tại địa chỉ số 68B, tổ 28B phường Thanh Lương và công văn số 76/VP-TD ngày 2/4/2013 của văn phòng HĐND-UBND quận đề nghị Thanh Tra quận xem xét đơn kêu cứu khẩn cấp đề ngày 28/3/2013 của bà Trịnh Thị Mai địa chỉ số 54 tổ 28A phường Thanh Lương đề nghị sớm thu hồi đất cống thoát nước công cộng đã bị gia đình bà Đoàn Thị Tuyết và ông Nguyễn Tuấn Thiệp xây nhà đè lên cống thoát nước, lấp cống gây ô nhiễm môi trường. Thanh Tra quận đã tiến hành thu thập hồ sơ tài liệu, kiểm tra xác minh vụ việc kết quả như sau:

1.     Nguồn gốc nhà đất của ông Nguyễn Tuấn Thiệp:

Địa chỉ nhà đất số 3C hẻm 9 ngách 26 ngõ 651 phố Minh Khai (số cũ là 68B tổ 28B phường Thanh Lương) trước năm 1995 là diện tích ao rau muống của HTX nông nghiệp Đồng Thanh, thuộc thửa đất số 187 bản đồ số 6I.IV.27 có diện tích 50m2

Ngày 3/12/1989, Chủ nhiệm HTX nông nghiệp Đồng Thanh viết giấy ủy nhiệm cho bà Sơn (Trịnh Tuyết Sơn) và bà Rền, xã viên HTX, có trách nhiệm quản lý diện tích ao rau muống cạnh đơn vị bộ đội (văn bản có chữ ký và đóng dấu của Chủ nhiệm HTX)

Ngày 15/3/1991, bà Trịnh Tuyết Sơn viết giấy nhượng lại diện tích 50m2 ao rau muống thuộc tổ 28 cho bà Tuyết (Đoàn Thị Tuyết) để bà Tuyết trông nom và quản lý (là văn bản viết tay không ghi số tiền chuyển nhượng, không có người làm chứng, không có chữ ký của người nhận chuyển nhượng và không được cơ quan chức năng xác nhận chứng thực),

Năm 1995, bà Đoàn Thị Tuyết san lấp ao rau muống nêu trên và xây dựng căn nhà cấp 4 khoảng 24m2 không có giấy phép xây dựng.

Ngày 12/10/1996. Công ty phát triển kỹ thuật xây dựng phối hợp với cán bộ địa chính phường Thanh Lương, bà Đoàn Thị Tuyết và 5 chủ sở dụng đất liền kề lập biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới thửa đất, không thể hiện có rãnh nước lộ thiên, có 4/5 chủ sử dụng đất liền kề ký xác nhận, không có chữ ký của tổ trưởng tổ dân phố. Tuy nhiện kết quả xác minh của Thanh Tra quận được thể hiện như sau:

-         3 chủ sở dụng đất liền kề không biết và không thừa nhận chữ ký của mình và cho là ghi tên giả mạo (bà Bùi Thị My) và chữ kí giả mạo (bà Lê Thị Cứu, Hoàng Tuyết Phương).

-         2 chủ sử dụng đất liền kề là ông Vũ Đình Bàng và bà Đoàn Thị Tuyết không nhớ sự việc.

-         Ông Đinh Quang Sáng nguyên tổ trưởng tổ dân phố 28 (thời điểm 1996) xác nhận không biết gì về việc lập biên bản nêu trên.

-         Ông Nguyễn Minh Hoàn nguyên cán bộ địa chính phường Thanh Lương (thời điểm 1996) xác nhận cán bộ của đơn vị đo đạc đi đo đạc, lấy chữ ký của chủ sử dụng đất và các hộ liền kề sau đó chuyển biên bản về UBND phường để cán bộ địa chính và Chủ tịch UBND phường ký xác nhận, bản thân ông Hoàn cũng không có mặt tại thửa đất như biên bản đã ghi. Như vậy, nội dung biên bản là không đúng thực tế khách quan dẫn đến đưa cả đường cống thoát nước chung của các hộ vào diện tích đất của gia đình bà Đoàn Thị Tuyết (trước khi cho con trai Nguyễn Tuấn Thiệp và trước khi được cấp GCN)

-         Ngày 19/3/2002, bà Đoàn Thị Tuyết viết giấy ủy quyền cho con trai là Nguyễn Tuấn Thiệp sử dụng 72,5m2 đất ao đã mua của bà Trịnh Tuyết Sơn HTX Đồng Thanh (giấy viết tay không có người làm chứng, không có chữ ký của người nhận ủy quyền và không được cơ quan chức năng xác nhận chứng thực.)

 

2.     Quá trình xét cấp GCN cho ông Nguyễn Tuấn Thiệp tại địa chỉ 68B tổ 28 Phường Thanh Lương:

Ngày 11/10/1998, ông Nguyễn Tuấn Thiệp kê khai đăng ký nhà ở đất ở và xin cấp GCN đối với 72,5m2 tại số 68B tổ 28A (ghi sai địa chỉ, địa chỉ đúng là tổ 28B) có các thông tin cơ bản sau: Nhà ở 22m2 xây dựng năm 1995 không giấy phép xây dựng và 48,5m2 sân do mẹ là bà Đoàn Thị Tuyết cho, bản sao các giấy tờ có liên quan gồm giấy ủy nhiệm và giấy chuyển nhượng diện tích ao, đơn xin cấp GCN đã được UBND phường Thanh Lương xác nhận đăng ký ngày 20/1/1999. Như vậy ông Thiệp đăng ký kê khai xin cấp GCN trước khi bà Đoàn Thị Tuyết viết giấy cho ông Thiệp sử dụng nhà đất nêu trên.

Ngày 12/4/2002, Hội đồng đăng ký nhà ở, đất ở phường Thanh Lương lập biên bản kết luận ông Thiệp sử dụng 72,5m2 làm đất ở ổn định từ ngày 15/3/1991 đến nay, trong đó có 22m2 nhà xây dựng năm 1995 không có giấy phép xây dựng, không có tranh chấp khiếu kiện và đề nghị UBND quận cấp GCN cho ông Nguyễn Tuấn Thiệp. Kết luận như trên là không đúng nguồn gốc đất và không đúng thực tế khách quan về sử dụng nhà đất, cụ thể nguồn gốc đất là đất ao rau muống của HTX nông nghiệp Đồng Thanh, ngày 3/12/1989 Chủ nhiệm HTX ủy nhiệm cho bà Trịnh Tuyết Sơn, bà Rền là xã viên HTX quản lý và giải quyết các hộ, ngày 15/3/1991 bà Sơn nhượng lại 50m2 ao rau muống cho bà Tuyết để trông nom quản lý và đến năm 1995 bà Tuyết mới xây dựng nhà ở không có giấy phép xây dựng. Ngày 19/3/2002 bà Tuyết mới cho ông Nguyễn Tuấn Thiệp sử dụng nhà đất, do đó ông Thiệp không thể sử dụng đất nông nghiệp làm đất ở ổn định từ ngày 15/3/1991 đến nay như kết luận trên (đến năm 1995 mới xây nhà).

Ngày 27/12/2002, phòng Địa chính nhà đất đô thị (nay là phòng TN&MT quận) có Tờ trình số 199/TTr-ĐCNĐ-ĐT, căn cứ Tờ trình số 97/TTr-UB ngày 3/7/200(2002) của UBND phường Thanh Lương đã được phòng địa chính nhà đất đô thị thẩm định đủ điều kiện cấp GCN.

Ngày 28/12/2002 UBND quận HBT có Quyết định số 192/QĐUB cấp GCN cho 18 hộ gia đình, cá nhân ở phường Thanh Lương trong đó có trường hợp nhà ông Nguyễn Tuấn Thiệp tại số thứ tự 12, GCN số 10107193235 được chậm nộp 20% tiền sử dụng đất và lệ phí trước bạ nhà đất theo tờ trình (đề nghị) số 97/TTr-UB ngày 3/7/200(2002) của UBND phường Thanh Lương và Tờ trình số 199/TTr-ĐCNDĐT ngày 27/12/2002 của phòng địa chính nhà đất và đô thị quận (nay là phòng TN&MT) Tuy nhiên , tại thời điểm kiểm tra UBND phường THanh Lương và phòng TN&MT quận đều chưa xuất trình được cho cơ quan Thanh tra tờ trình số 97/TTr-UB ngày 3/7/200(2002), hồ sơ thực hiện niêm yết công khai kết quả phân loại hồ sơ, bản sao chứng mình thư của ông Thiệp (khoản 2,3 điều 10 qquy định ban hành theo quyết định số 69/1999/QĐ-UB ngày 18/8/1999 của UBND thành phố Hà nội (Quyết định 69). Không có hồ sơ xử lý nhà xây dựng không phép – không đúng quy định tại khoản 4 điều 5 Quyết định số 69. Tờ khai đăng ký nhà ở đất ở cps sơ đồ thửa đất nhưng không có các chủ sử dụng đất liền kề ký – không đúng quy định tại khoản 1 điều 9 Quyết định 69”.

Căn cứ vào việc kiểm tra nêu trên Thanh tra quận HBT đi đến kết luận: “Quá trình xét cấp giấy chứng nhận cho ông Nguyễn Tuấn Thiệp tại địa chỉ số 68B tổ 28B phường Thanh Lương có sai phạm, không đúng quy định được ban hành theo Quyết định số 69/1999/QĐ-UB ngày 18/8/1999 của UBND thành phố Hà Nội về nguồn gốc đất, thời điểm sử dụng nhà đất, điều kiện được xét cấp giấy chứng nhận và trình tự quy định về xét cấp giấy chứng nhận.

UBND quận HBT ban hành QĐ 3637 thu hồi giấy chứng nhận đã cấp của ông Thiệp dựa vào căn cứ này là trái với quy định của điểm a khoản 2 điều 25 NĐ 88 vì:

Thứ nhất: Để tránh sự lạm dụng quyền lực của cơ quan hành chính luật quy định trước khi quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp Uỷ ban nhân dân là cơ quan cấp GCNQSD đất có trách nhiệm xem xét việc đã cấp có phù hợp với các quy định của pháp luật hay không để quyết định sẽ thu hồi họăc không thu hồi. Và chỉ khi có căn cứ xác định việc cấp giấy chứng nhận trái pháp luật thì mới thu hồi (tức là cơ quan ban hành quyết định thu hồi phải chỉ ra được vi phạm điều cấm trong việc cấp giấy chứng nhận ).

Thứ hai: Trong QĐ 3637 của UBND quận HBT không chỉ ra được điều luật cụ thể để xác định việc cấp giấy chứng nhận cho ông Thiệp là trái quy định của luật, Tôi cho rằng UBND quận HBT chỉ có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đã cấp cho ông Thiệp nếu chỉ ra được việc cấp giấy vi phạm điều “cấm “ của luật thì mới thỏa mãn yêu cầu của điểm a khoản 2 điều 25 NĐ88 là “trái quy định của pháp luật”.

Thứ ba: Tôi khẳng định việc cấp giấy chứng nhận không phạm điều cấm của luật. Chứng minh như sau:

-Đối chiếu vào các quy định của pháp luật vào thời điểm ông Thiệp được cấp giấy chứng nhận.

Theo QĐ 192 /QĐ-UB ngày 28/12/2002 của UBND quận HBT v/v cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho 18 hộ gia đình, cá nhân ở phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội (ông Thiệp ở số thứ tự 12 thuộc nhóm III gồm 4 trường hợp được cấp giấy chứng nhận và được chậm nộp 20% tiền sử dụng đất và lệ phí trước bạ.

Trong QĐ 192 đã liệt kê các văn bản quy phạm pháp luật áp dụng để cấp giấy chứng nhận của ông Thiệp là: Luật đất đai năm 1993, Nghị định 60/CP ngày 5/7/1994 và Nghị định 45/CP này 3/8/1996 về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị của Chính phủ , NĐ 17/1999/NĐ - CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và quan trọng nhất là Quyết định 69/1999/QĐ-UB ngày 18/8/1999 của UBND thành phố Hà  Nội Về việc ban hành sửa đổi "Quy định về kê khai đăng ký nhà ở, đất ở và cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở 
tại đô thị Thành phố Hà Nội

+ Đối chiếu QĐ 69 của UBND TP. Hà Nội: Trong QĐ này có điều 6 là điều luật quy định về các trường hợp không được cấp giấy chứng nhận nếu nhà đất của ông Thiệp thuộc 1 trong các trường hợp trong điều này thì việc cấp giấy chứng nhận mới bị coi là trái quy định của luật. Qua thẩm vấn của luật sư đối với vị thanh tra viên đại diện cho UBND quận HBT thì ông Thiệp không thuộc trường hợp nào.

Trích điều 6 QĐ 69:

“Điều 6: Không cấp Giấy chứng nhận cho các trường hợp không có giấy tờ gốc hợp lệ về đất đai tại khu vực nằm trong phạm vi hành lang bảo vệ các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị như: Đường giao thông, đường sắt, đường bộ, cầu cống, đê, công trình thuỷ lợi, điện... và khu vực di tích lịch sử, an ninh quốc phòng.

Trường hợp có giấy tờ gốc hợp pháp, hợp lệ về quyền sử dụng đất nhưng diện tích nhà đất thuộc phạm vi bảo vệ công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu di tích, an ninh quốc phòng thì xử lý như sau:

+ Nhà ở đã xây dựng trước ngày ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về phạm vi bảo vệ các công trình thì được cấo Giấy chứng nhận với điều kiện không được chuyển nhượng; khi Nhà nước giải toả được đền bù theo qui định.

+ Nhà ở xây dựng sau ngày ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về phạm vi bảo vệ các công trình thì chỉ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với điều kiện không được chuyển nhượng, thế chấp. Nhà ở và công trình đã xây dựng phải chịu xử lý theo quy định.

Mọi trường hợp có tranh chấp, khiếu nại trong quá trình xét cấp Giấy chứng nhận thì việc cấp Giấy chứng nhận chỉ được xem xét sau khi đã được cơ quan Nhà  nước có thẩm quyền giải quyết xong theo quy định của pháp luật”.

Căn cứ Báo cáo số 50 của Thanh tra quận và lời thừa nhận của vị thanh tra viên –đại diện theo ủy quyền của UBND quận HBT tại phiên tòa thì trường hợp của ông Thiệp không thuộc điều nào của điều 6 như viện dẫn ở trên. Tôi cho rằng đó chính là lý do trong QĐ3637 né tránh không sử dụng cụm từ “trái quy định của pháp luật” mà chỉ sử dụng cụm từ “sai phạm” và “không đúng quy định” mà về mặt cú pháp tiếng Việt thì không hề có ý nghĩa tương đương.

Phía người đại diện UBND quận HBT –vị phó phòng TN và MT xác định do trên đất có nguồn gốc ao rau muống đã xây nhà ở từ năm 1995 và được Hội đồng đăng ký nhà ở và đất ở của phường họp xác định là đất ở nên thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính (nộp 20%) tiền sửu dụng đất cho Nhà nước mà không cần phải có quyết định của UBND quận HBT chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở.

Đối  với các lý do mà Báo cáo 50 của Thanh tra quận HBT chỉ ra và coi là “những sai phạm” và “không đúng quy định” thì trường hợp của ông Thiệp thuộc các trường hợp xử lý trước khi cấp giấy chứng nhận quy định tại điều 5 của QĐ 69 như sau:

“Điều 5: Các trường hợp phải xem xét xử lý trước khi cấp Giấy chứng nhận:

1.   Nếu chủ nhà có một trong các giấy tờ về nhà đất nêu ở Điều 4 nhưng không phải chính chủ đang sử dụng thì phải có những giấy tờ liên quan đến thừa kế, chia, nhận quà tặng... và được UBND phường, thị trấn xác nhận sự việc có thật, không có tranh chấp, khiếu kiện sẽ được xét cấp Giấy chứng nhận.

2.   Nếu chủ nhà có giấy tờ hợp lệ về nhà đất nêu ở Điều 4 nhưng sử dụng diện tích đất vượt quá diện tích quy định trong giấy tờ hợp lệ thì phần diện tích vượt quá cũng được cấp Giấy chứng nhận sau khi chủ nhà nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Nghị định 45/CP nàgy 3/8/1996 của Chỉnh phủ.

3.   Nếu chủ nhà không có giấy tờ về nhà đất nêu ở Điều 4 nhưng phù hợp với qui hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt và được chính quyền cấp phường, thị trấn xác nhận nhà ở, đất ở không có tranh chấp, đang được sử dụng ổn định thì chủ nhà được xét cấp Giấy chứng nhận với mức đất ở quy định như sau:

3.1- Từ vành đai 2 trở vào trung tâm Thành phố (thuộc 4 quận nội thành cũ, từ Vĩnh Tuy -Ngã tư Vọng -Ngã tư Sở -Cầu giấy -Nhật tân và trung tâm) không quá 120m2/hộ.

3.2- Từ vành đai 2 trở ra không quá 180m2/hộ

3.4- Diện tích được hợp thức phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Nghị định 45/CP ngày 3/8/1996 của Chính phủ với mức như sau:

+ Người sử dụng đất ở ổn định sau ngày 18/12/1980 đến 15/10/1993 phải nộp 20% tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ (phần nhà), lệ phí cấp Giấy chứng nhận và thuế nhà đất.

4.   Đối với nhà ở xây dựng sai phép hoặc không phép khi được xét cấp Giấy chứng nhận phải chịu xử lý theo Quyết định số 12/1998/QĐ-UB ngày 5/6/1998 của UBND Thành phố và các quy định khác có liên quan.

Theo vị thanh tra viên -đại diện cho UBND quận HBT cho rằng Hội đồng xét cấp giấy chứng nhận phường Thanh Lương đã không xử lý ngôi nhà cấp 4 xây dựng không phép năm 1995 của bà Tuyết theo quy định tại khoản 4 điều 5 của QĐ.

Như vậy phía đại diện UBND quận HBT cho rằng việc xử lý đất ở (77,5m2) của ông Thiệp là đúng còn chỉ chưa đúng đối với xử lý diện tích nhà không phép. Do đó tôi cho rằng việc thiếu thủ tục này không thuộc điều cấm và hoàn toàn có thể khắc phục bằng cách truy thu tiền mà không phải thu hồi giấy chứng nhận. Sai phạm này không thể kết luận việc cấp giấy chứng nhận cho ông Thiệp là trái quy định của pháp luật được-là căn cứ quan trọng để quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp.

-Đối chiếu vào các quy định hiện hành của Luật đất đai và các Nghị định hướng dẫn thi hành luật đất đai về điều kiện để cấp giấy chứng nhận  bởi chỉ khi kết luận viêc cấp không thoả mãn các điều kiện quy định của pháp luật (trái luật) thì mới có căn cứ để quyết định thu hồi.

Vì Báo cáo số 50 của Thanh tra quận HBT cho rằng có sai phạm khi xác định “về nguồn gốc đất, thời điểm sử dụng nhà đất, điều kiện được xét cấp giấy chứng nhận và trình tự quy định về xét cấp giấy chứng nhận”. Nên cơ sở để xem xét tính trái pháp luật là các quy định của Luật Đất đai cũng như các văn bản dưới luật quy định về điều kiện để đất được cấp GCNQSD đất theo điều 50 Luật đất đai năm 2003.

Trường hợp nhà đất của ông Thiệp thuộc quy định tại khoản 4 điều 50 như sau:

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.

Tuy nhiên trong Báo cáo của Thanh tra quận HBT đã có sự nhầm lẫn khi xác định thời điểm sử dụng đất ổn định trường hợp của ông Thiệp.

Do đó cần làm rõ thuật ngữ pháp lý thế nào là “đất sử dụng ổn định” như quy định tại khoản 4 điều 50 Luật đất đai.

Căn cứ điều 3 NĐ84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy CNQSD đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai đã giải thích rõ hơn cụm từ “đất sử dụng ổn định” như sau:

“        1. Đất sử dụng ổn định quy định tại khoản 4 Điều 50 của Luật Đất đai là đất đáp ứng một trong các tiêu chí sau đây:

a) Đất đã được sử dụng liên tục cho một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm được cấp Giấy chứng nhận hoặc đến thời điểm có quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận;

b) Trường hợp đất đã được sử dụng liên tục quy định tại điểm a khoản này mà có sự thay đổi về người sử dụng đất và sự thay đổi đó không phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất.

2. Việc xác định thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được căn cứ vào ngày tháng năm sử dụng và mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau:

a) Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất;

e) Giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú đài hạn tại nhà ở gắn với đất ở; Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy khai sinh có ghi địa chỉ của nhà ở liên quan đến thửa đất;

g) Giấy tờ về việc giao, phân, cấp nhà hoặc đất của cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao quản lý, sử dụng đất;

h) Giấy tờ về mua bán nhà, tài sản khác gắn liền với đất hoặc giấy tờ về mua bán đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan (không cần có chứng nhận của cơ quan, tổ chức);

i) Bản đồ, sổ mục kê, tài liệu điều tra, đo đạc về đất đai qua các thời kỳ.

k) Bản kê khai đăng ký nhà, đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã tại thời điểm kê khai đăng ký.

3. Trường hợp thời điểm sử dụng đất thể hiện trên các loại giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều này có sự không thống nhất thì thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định theo giấy tờ có ghi ngày tháng năm sử dụng đất sớm nhất.

4. Trường hợp không có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 2 Điều này hoặc trên giấy tờ đó không ghi rõ thời điểm xác lập giấy tờ và mục đích sử dụng đất thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất”.

Đối chiếu vào quy định nêu trên thì thời điểm sử dụng đất phải tính từ thời điểm mẹ ông Thiệp nhận chuyển nhượng suất đất ao rau muống từ bà Sơn (năm 1990) (điểm a khoản 1) và luật quy định không cần có có người làm chứng hoặc xác nhận của cơ quan có thẩm quyền mà chỉ yêu cầu “không có tranh chấp, khiếu kiện” về đất và tuy ông Thiệp đến năm 1999 mới được mẹ cho đất nhưng đất được sử dụng liên tục tuy có thay đổi người sử dụng đất (từ mẹ sang con) nhưng thời điểm sử dụng đất vẫn được coi là 1990 chứ không thể năm 1999 (điểm b khoản 2). Căn cứ báo cáo thanh tra xác nhận năm 1995 là thời điểm bà Tuyết xây nhà nên mục đích sử dụng đất đã là đất ở chứ không còn là ao rau muống nữa và mục đích sử dụng đất này là chính, Tại phiên tòa luật sư của người khởi kiện cũng đã xuất trình các giấy tờ để làm căn cứ xác định thời điểm sử dụng đất là biên lai nộp thuế nhà đất ngày 12/12/1992 do đó thời điểm sử dụng đất ổn định của ông Thiệp được xác định từ năm 1992. Điều này chứng minh không hề có trái luật khi Hội đồng cấp giấy chứng nhận của phường Thanh Lương xác nhận ông Thiệp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận với điều kiện phải thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước –nộp 20% tiền sử dụng đất như thể hiện trong QĐ 192 của UBND quận HBT .

Tại Mục I của Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT quy định cụ thể hơn về tiêu chí xác định thời điểm sử dụng đất ổn định như sau: “Khi thực hiện công việc thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt trong quá trình xét cấp GCNQSD đất, Uỷ ban nhân dân cấp xã phải lấy ý kiến của khu dân cư gồm những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích hiện tại của thửa đất. Ý kiến của khu dân cư được lập thành văn bản và phải được công bố công khai cùng với danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận. Sau khi kết thúc việc công khai, Uỷ ban nhân dân cấp xã xem xét các ý kiến đóng góp về nguồn gốc và thời điểm bắt đầu sử dụng đất theo mục đích sử dụng đất hiện tại để ghi xác nhận vào đơn xin cấp giấy CNQSD đất cùng với phiếu lấy ý kiến của khu dân cư để gửi cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất”.

Theo trình bày của đại diện của UBND quận HBT thì UBND phường Thanh Lương không lưu trữ hồ sơ xét cấp giấy chứng nhận nhà đất của ông Thiệp nhưng Phòng TN và MT quận HBT còn lưu trữ Tờ trình của Phòng địa chính Nhà đất quận về việc cấp giấy chứng nhận cho ông Thiệp. Quan điểm của luật sư việc không lưu trữ hồ sơ là thuộc trách nhiệm của UBND phường Thanh Lương người dân không có lỗi.Mặt khác với sự tồn tại của Tờ trình của Phòng địa chính Nhà đất quận HBT chứng tỏ phải căn cứ vào hồ sơ xét duyệt của Hội đồng đăng ký nhà ở, đất ở cấp phường được thành lập theo điều 18 QĐ69 thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Bẳng chứng là trong quá trình xét cấp giấy chứng nhận cho ông Thiệp năm 1999 cho đến khi cấp giấy chứng nhận năm 2002 cho đến năm 2011 không hề có khiếu nại.

Như vậy, việc cấp giấy chứng nhận hộ gia đình ông Thiệp đã tuân thủ quy định điều 50 Luật đất đai, điều 3 Nghị định 84, Mục I  Thông tư số 06, điều 5,6 QĐ 69 do đó không có căn cứ để cho rằng việc cấp giấy đó là trái luật như quy định tại điểm a khoản 2 điều 25 NĐ88 .

+ Lý do thứ hai: Thể hiện ở nội dung tiếp theo của Báo cáo số 50 của Thanh tra quận HBT

3.     Về nguồn gốc cống thoát nước và khiếu kiện:

Trong hồ sơ xét cấp GCN nêu trên không thể hiện có rãnh thoát nước lộ thiên ở phía nam thửa đất của ông Thiệp. Tuy nhiên trong hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng có thể hiện 1 rãnh nước sát ranh giới thửa đất nhà ông Thiệp (bản vẽ do chính ông Thiệp thiết kế, đã được UBND quận đóng dấu xác nhận theo giấy phép số 802.10.09 ngày 12/10/2009 (bản vẽ thiết kế mặt bằng tầng 1 và bản vẽ mặt bằng cấp thoát nước)

Tháng 1/2010 gia đình ông THiệp xây dựng nhà ở theo GPXD đã được cấp làm phát sinh khiếu kiện của một số hộ gia đình thuộc tổ 28A, 28B phường Thanh Lương có nội dung bà Tuyết, ông Thiệp xây dựng nhà ở lấn chiếm đất công đè lên cống thoát nước làm hư hỏng, tắc toàn bộ hệ thống thoát nước, ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường của các hộ dân. Đơn được nhiều người dân ăn ở lâu năm và tổ trưởng tổ dân phố ghi ý kiến xác nhận có tồn tại 1 rãnh nước lộ thiên chung của các hộ dân sát phía nam ao rau muống HTX Đồng Thanh (nay là nhà ông THiệp), điểm đầu từ nhà bà Phúc tổ 28A, đến điểm cuối nối với ga cống nước nhà bà Bùi Thị My tổ 28B, rộng khoảng hơn 1m, dài khoảng 20m, là cống thoát nước cho một số hộ gia đình tổ 28A, 28B phường Thanh Lương. Trước kia mỗi khi cống tắc các hộ gia đình phải đóng góp tiền để sửa chữa khơi thông cống. Từ khi ông Thiệp xây nhà đã lấn sân đè lên đướng cống và đổ phế liệu xây dựng gây tắc cống, ô nhiễm môi trường. Mặt khác UBND phường Thanh Lương đã kiểm tra, kết luận có tồn tại cống thoát nước lộ thiên đi qua diện tích đất được cấp GCN cho ông THiệp và gia đình ông Thiệp đã cải tạo, san lấp gây tắc cống như hiện nay (Thông báo số 02/TB-UB ngày 10/1/2012, công văn số 200/UBND ngày 26/10/2012 của UBND phường Thanh Lương).

Ngày 20/10/2011 UBND phường họp giải quyết kiến nghị của bà Trịnh Thị Mai đã kết luận: phê bình gia đình bà Đoàn Thị Tuyết không tôn trọng chính quyền, không hợp tác giải quyết đơn thư của công dân, giao cán bộ địa chính phường sao lục hồ sơ nhà đất của ông Thiệp báo cáo Chủ tịch UBND phường và giao cán bộ TTXD phướng kiểm tra xử lý việc xây dựng nhà ở của ông Thiệp theo giấy phép được cấp và đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên nội dung biên bản trên vẫn chưa được thực hiện và thực tế UBND phường Thanh Lương không có hồ sơ quản lý TTXD đối với công trình xây dựng nhà ông Thiệp (không xác định được công trình đúng hay sai giấy phép xây dựng). Tuy nhiên tại văn bản số 116/CV-UBND ngày 10/6/2013, UBND phường Thanh Lương xác định phần tường phía sau nhà ông Thiệp có chiều dài là 0,08m (so với giấy phép xây dựng số đo đó là 7,2m, so với kết quả kiểm tra ngày 28/12/2012 số đo đó là 8,51m)”.

 Tại phiên tòa HĐXX đã dành nhiều thời gian để làm rõ có tồn tại cái cống chung trong đất được cấp giấy chứng nhận của ông Thiệp hay không thì đại diện UBND quận HBT không có tài liệu chứng cứ gì để xác định thời điểm tồn tại cái cống chung, kích thước (dài rộng) của cái cống, nguồn kinh phí để tạo lập cái cống chung.

Còn ông Thiệp khẳng định trong đất của nhà ông từ trước đến nay không hề có cái cống chung nào (nhất là với kích thước dài rộng hơn 1m, dài 20m như báo cáo thanh tra kết luận). Thực tế thì chỉ có 1 cái khe giữa ngôi nhà của ông Thiệp với tường nhà ông Tiến (hàng xóm) với chiều rộng khoảng 60 phân và chiều dài khoảng 12m.

Ngày 25/10/2013 UBND phường Thanh Lương đã vào đất nhà ông Thiệp  thực hiện cưỡng chế đào đất làm 1 cái cống ngầm ở cái khe này và tháo dỡ cổng sắt của nhà ông Thiệp.

Căn cứ Biên bản xem xét thẩm định ngày 11/4/2014 do Tòa án quận HBT tiến hành thể hiện trong khuôn viên đất của ông Thiệp qua xem xét thực tế thấy “phần diện tích xây dựng trên mặt cống thoát nước có chiều dài 3,05m x0,65m chạy thẳng theo dọc nhà sát với nhà ông Thiệp (là cống nổi trước đây) năm 2013 phường Thanh Lương đã cảu tạo, sửa chữa thành cống chìm. Từ điểm chân tường của nhà ông Thiệp có chiều dài 2,7m ngoặt sang trái 0,5m và chạy thẳng ra ngõ thoát nước chung của các hộ dân sống tại đây”.  

Ông Thiệp khẳng định nguồn gốc đất của gia đình đã sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993 và không hề có cái cống thoát nước công cộng nào chảy qua.  Còn theo báo cáo thanh tra cũng thể hiện từ năm 1996 để phục vụ công tác lập bản đồ địa chính, UBND phường Thanh Lương đã phối hợp với Công ty phát triển kỹ thuật xây dựng xác định ranh giới trên thực địa và thửa đất của gia đình ông Thiệp diện tích 72,5m2 đã chính thức được đăng ký vào bản đồ địa chính phường Thanh Lương với số thửa 187, tờ bản đồ 6I-IV-27 kèm theo sơ đồ Trích sao bản đồ hiện trạng sử dụng đất tỷ lệ 1:200 cùng với các hộ dân toàn khu vực thể hiện không hề có rãnh nước công cộng lô thiên chảy qua nhà tôi.

Năm 2001 ông Thiệp đã được UBND quận Hai Bà Trưng cấp giấy phép xây dựng do chính ông Lâm Anh Tuấn ký trong các bản vẽ hồ sơ thiết kế xây dựng ngôi nhà hiện nay cũng không thể hiện có rãnh thoát nước lộ thiên chảy qua đất của ông Thiệp.

Còn cái cống chìm hiện nay trong khuôn viên nhà ông Thiệp thì do UBND phường Thanh Lương vào thực hiện cưỡng chế trước thời điểm tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ. Do đó chưa thể kết luận có cái cống chung của các hộ dân tổ 28B nằm trong khuôn viên đất của ông Thiệp.

Tôi cho rằng lý do này cũng không phải là căn cứ để thu hồi giấy chứng nhận đã cấp của ông Thiệp với lập luận như sau:

-Vì giấy chứng nhận QSD đất là chứng thư pháp lý của Nhà nước cấp cho người sử dụng đất để công nhận việc sử dụng đất hợp pháp của họ. Như vậy đối với các vụ án hành chính yêu cầu hủy quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp cần dựa vào các văn bản luật nội dung về pháp luật đất đai và cần phải xem xét 1 cách cẩn trọng như việc thu hồi sổ đỏ vì việc cấp đó đã xâm phạm đến quyền và lợi ích của những ai. Tại phiên tòa qua phần xét hỏi của luật sư phía đại diện UBND quận HBT không chỉ ra được cơ quan, tổ chức, hộ gia đình nào bị xâm phạm quyền lợi ngoài gia đình ông Thiệp. Đó chính là câu hỏi mà luật sư đã đặt ra vậy có cần thiết phải thu hồi giấy chứng nhận đã cấp để buộc gia đình ông Thiệp phải tiến hành kê khai đăng ký để được cấp lại giấy chứng nhận? Điều này là không cần thiết và gây lãng phí cho Nhà nước.

Bản chất sâu xa của vấn đề bắt đầu từ việc tranh chấp có liên quan đến quy định về thoát nước thải của các bất động sản liền kề. Do đó cần phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự để xem xét việc UBND quận Hai Bà trưng thu hồi sổ đỏ của ông Thiệp chỉ vì cho là trong đất nhà ông Thiệp có cái cống nước chung của 1 số hộ dân có đúng thẩm quyền về luật hành chính hay không?

Trước hết theo điều 270 Bộ luật dân sự, chủ sở hữu nhà phải làm cống ngầm hoặc rãnh thoát nước để đưa nước thải ra nơi quy định, sao cho nước thải không chảy tràn sang bất động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề, ra đường công cộng hoặc nơi sinh hoạt công cộng làm ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, trong trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp, thoát nước buộc phải qua một bất động sản khác thì Điều 277 BLDS quy định chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua phải dành một lối cấp, thoát nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng nước chảy.

Đương nhiên nghĩa vụ đào rãnh hoặc lắp đường thoát nước thuộc về người sử dụng lối cấp, thoát nước đó, và họ phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt đường dẫn nước; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên thực hiện cấp thoát nước phải đền bù cho chủ sử dụng đất có lối cấp thoát nước đi qua.

Từ những quy định trên cứ cho là bà Trịnh Thị Mai (và 1 số hộ dân không có lối thoát nước thải) phải đi qua đất đã được cấp giấy chứng nhận của ông Thiệp thì việc ông Thiệp không  cho các nhà dân bên cạnh đào rãnh cho nước chảy qua nhà mình là đúng. Những nhà bên cạnh có nghĩa vụ thực hiện việc đào rãnh hoặc lắp đặt đường ống ngầm để nước chảy qua nhà bạn sao cho hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho gia đình ông Thiệp (những thiệt hại như ô nhiễm môi trường, bảo đảm cảnh quan, lấn chiếm diện tích đất quá nhiều...). Nhưng theo ông Thiệp trình bày thì các hộ bên cạnh đều có lối thoát nước.

Ngày 25/6/2014 ông Thiệp đã có đơn đề nghị tòa án tiến hành thu thập chứng cứ xem xét xác định xem có những hộ dân nào không có đường thoát nước thải mà phải chảy qua đất nhà ông Thiệp bởi trong báo cáo số 50 của Thanh tra chỉ nêu chung chung “theo đơn khiếu nại của bà Trịnh Thị Mai và một số hộ dân…”.

Do đó luật sư cho rằng nguyên nhân chỉ là bắt nguồn từ việc khiếu kiện của bà Mai liên quan đến đường nước thải qua đất nhà ông Thiệp bị tắc. Căn cứ điều 277 Bộ luật dân sự giả sử không có cống chung nào trong đất nhà ông Thiệp và bà Mai không có lối thoát nước thải nào khác thì ông Thiệp vẫn phải tạo điều kiện cho bà Mai thoát nước qua đất của nhà ông Thiệp và điều này cho thấy không cần thiết phải thu hồi giấy chứng nhận của ông Thiệp để thực hiện kê khai xin cấp lại giấy chứng nhận như QĐ 3637 của UBND quận HBT.

Đề nghị của luật sư

Căn cứ vào phân tích nêu trên và kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa tôi đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Thiệp: xác định QĐ3637 của UBND quận HBT về thu hồi giấy chứng nhận  đã cấp cho ông Thiệp là không hợp pháp thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành và có nội dung trái pháp luật và tuyên hủy toàn bộ quyết định này.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 30 tháng 6 năm 2014.

Luật sư

 (đã ký)

Phan Thị Hương Thủy

Một số hình ảnh tại buổi xem xét thẩm định ngày 11/4/2014:

hien trang 03.jpg

loi di nha ba Ha.jpg

Loi di nha ba Mai.jpg

loi di nha ong Thiep.jpg

Hiện trạng sử đất của gia đình ông Thiệp thể hiện không có cái cống chung nào của các hộ dân tổ 28A và 28B

100_0337.JPG

Hiện trạng rãnh nước giữa tường nhà ông Thiệp và nhà ông Tiến trước khi bị UBND phường Thanh Lương vào cưỡng chế xây thành cống ngầm.


hien trang 11-04-2014(1).jpg

Cái cống chìm xây trên cái khe giữa hai nhà: Bức tường nhà ông Thiệp và tường nhà ông Tiến do UBND phường Thanh Lương vào thực hiện cưỡng chế khi Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ