Đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng hành chính

Ngày cập nhật: 20/07/2013
Hiện nay, vấn đề đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng hành chính đang rất được quan tâm. Khoản 8 Điều 49 Luật Tố tụng Hành Chính năm 2010 quy định đương sự có quyền “Ủy quyền bằng văn bản cho luật sư hoặc người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng”.

Và theo khoản 5 Điều 54 Luật Tố tụng Hành Chính năm 2010 thì “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính thực hiện toàn bộ các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của người ủy quyền.”
Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về hoạt động của người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính. Luật sư Phan Thị Hương Thủy – Luật sư của Công ty Luật Hoàng Long - cũng đã tham gia vào nhiều vụ việc tố tụng hành chính sẽ chia sẻ về hoạt động này từ những kinh nghiệm thực tiễn. 
Ví dụ thực tế, vụ Hợp tác xã Rau Chiến Thắng kiện Ủy ban nhân dân Thành phố Hạ Long về việc yêu cầu hủy các Quyết định của UBND Thành phố Hạ Long về việc tính tiền hỗ trợ đất nông nghiệp trong khu dân cư để thực hiện dự án Khu đô thị Bãi Muối tại phường Cao Thắng, Thành phố Hạ Long, bên khởi kiện đã yêu cầu Luật sư Phan Thị Hương Thủy trở thành người đại diện theo ủy quyền cho 118 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Sau khi Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long ra quyết định bản án số 02/2013/HCST, quyết định bác đơn khởi kiện của Hợp tác xã Rau Chiến Thắng, ngày 20/01/2013, với tu cách là người đại diện theo ủy quyền của bên khởi kiện là HTX rau Chiến Thắng, Luật sư Phan Thị Hương Thủy đã làm đơn kháng cáo gửi lên Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Ninh, theo Điều 174 Luật Tố tụng Hành Chính quy định “Đương sự hoặc người đại diện của đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm”. Và sau đây là văn bản chi tiết nội dung kháng cáo:

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------***-----------

Hà Nội, ngày 25 tháng 06 năm 2013.

VĂN BẢN TRÌNH BÀY Ý KIẾN CHI TIẾT VỀ NỘI DUNG KHÁNG CÁO
Đối với bản án hành chính sơ thẩm số 02/2013/HCST ngày 15/01/2013 
của Tòa án Nhân dân thành phố Hạ Long
          Kính gửi : Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Ninh
           
Tôi là: Phan Thị Hương Thủy- luật sư Công ty luật TNHH Hoàng Long thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội
Địa chỉ: Số 768, phố Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Là người đại diện theo ủy quyền của 118 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm:
1. Phạm Đình Bang - Sinh năm 1958
2. Phạm Văn Bé - Sinh năm 1962
3. Phạm Thị Bí - Sinh năm 1959
4. Nguyễn Thị Bích - Sinh năm 1963
5. Vũ Đình Chắn - Sinh năm 1946
6. Nguyễn Thị Chiển - Sinh năm 1940
7. Trần Thị Chuyền - Sinh năm 
8. Đoàn Thị Chuốt - Sinh năm 1961
9. Cao Thị Dung - Sinh năm 1943
10. Lại Thị Dung - Sinh năm 1952 
11. Thái Thị Kim Dung - Sinh năm 1975 
12. Vũ Thị Đận - Sinh năm 1932
13. Trần Xuân Đĩnh - Sinh năm 1951 
14. Lương Thị Đô - Sinh năm 1940
15. Lê Thị Đông - Sinh năm 1970
16. Phạm Văn Đãi - Sinh năm 1953 
17. Đào Thị Gái - Sinh năm 1952
18. Phạm Thị Hiến - Sinh năm 1970
19. Phạm Thị Hà - Sinh năm 1965
20. Nguyễn Thị Hải - Sinh năm 1958
21. Nguyễn Thị Hậu - Sinh năm 1966
22. Đoàn Thị Hiên - Sinh năm 1966
23. Phạm Thị Hào - Sinh năm 1953
24. Phạm Thị Hoa - Sinh năm 1955
25. Nguyễn Thị Huệ - Sinh năm 1936
26. Hoàng Văn Hùng - Sinh năm 1964
27. Nguyễn Thị Hữu - Sinh năm 1961
28. Trần Hữu Hựu - Sinh năm 1950
29. Phạm Thị Hợi - Sinh năm 1947
30. Tô Thị Hương - Sinh năm 1969
31. Nguyễn Thị Hương - Sinh năm 1970
32. Đoàn Thị Hồng - Sinh năm 1962
33. Phạm Thị Hường - Sinh năm 1941
34. Đặng Văn Kha - Sinh năm 1940
35. Nguyễn Thị Khá - Sinh năm 1968
36. Trần Thị Khiên - Sinh năm 1960
37. Đoàn Thị Lan - Sinh năm 1960
38. Phạm Thị Lãi - Sinh năm 1964
39. Nguyễn Thị Là - Sinh năm 1934 
40. Nguyễn Thị Liên - Sinh năm 1967
41. Phan Thị Liên - Sinh năm 1966
42. Vũ Thị Lăng - Sinh năm 1971
43. Bùi Thị Hồng Lựu - Sinh năm 1950
44. Trần Văn Liên - Sinh năm 1956
45. Nguyễn Thị Liễng - Sinh năm 1949
46. Nguyễn Thị Luyến - Sinh năm 1954
47. Đồng Thị Liên - Sinh năm 1958
48. Trần Thị Lý - Sinh năm 1952
49. Trần Thị Mai - Sinh năm 1956
50. Vũ Thị Mai - Sinh năm 1950
51. Vũ Thị Mài - Sinh năm 1958
52. Lại Văn Mãi - Sinh năm 1938
53. Trần Thị Mận - Sinh năm 1954
54. Nguyễn Thị Mùi - Sinh năm 1951
55. Phạm Thị Mượt - Sinh năm 1954
56. Nguyễn Thị Ngát - Sinh năm 1970
57. Vũ Thị Nhung (Tĩnh)- Sinh năm 1957
58. Vũ Đình Ngần - Sinh năm 1948
59. Đoàn Thị Ngấn - Sinh năm 1948 
60. Nguyễn Đình Nhất - Sinh năm 1950
61. Nguyễn Thị Nhung - Sinh năm 1975
62. Lê Thị Ngõ - Sinh năm 1948
63. Nguyễn Thị Nháp - Sinh năm 1958
64. Đoàn Thị Nụ - Sinh năm 1946
65. Lê Thị Nhẹn - Sinh năm 1962
66. Vũ Thị Nhung (Mười)- Sinh năm 1976
67. Ngô Thị Nhiễu - Sinh năm 1943
68. Tạ Thị Nhứng - Sinh năm 1953 
69. Nguyễn Mạnh Nghiễn - Sinh năm 1957
70. Vũ Thị Ngoan - Sinh năm 1964
71. Dương Thị Kim Oanh - Sinh năm 1968
72. Lê Thị Quyên - Sinh năm 1962
73. Đỗ Thúy Quỳnh - Sinh năm 1968
74. Vũ Hồng Quân - Sinh năm 1955
75. Vũ Thị Tâm - Sinh năm 1970
76. Vũ Văn Thắng - Sinh năm 1950
77. Phạm Thị Thúy - Sinh năm 1978
78. Trần Thị Thắm - Sinh năm 1978
79. Phạm Thị Thắm - Sinh năm 1954
80. Phạm Thị Thật - Sinh năm 1948
81. Lư Thị Thìn - Sinh năm 1952
82. Nguyễn Thị Thấy - Sinh năm 1950
83. Tạ Văn Thiếc - Sinh năm 1957
84. Nguyễn Thị Thoa - Sinh năm 1958
85. Phạm Thị Thu - Sinh năm 1970
86. Nguyễn Thị Thuận - Sinh năm 1954
87. Nguyễn Thị Thủy - Sinh năm 1978
88. Nguyễn Thị Thược - Sinh năm 1940
89. Nguyễn Xuân Tiến - Sinh năm 1944
90. Phạm Thị Tính - Sinh năm 1962
91. Lê Thị Tỉnh - Sinh năm 1952
92. Đoàn Thị Tòng - Sinh năm 1938
93. Vũ Thị Tới - Sinh năm 1960
94. Nguyễn Thị Thêm - Sinh năm 1957
95. Nguyễn Thị Tuyết - Sinh năm 1948
96. Nguyễn Thị Tý - Sinh năm 1961
97. Vũ Đình Tý - Sinh năm 1960
98. Nguyễn Thế Tưởng - Sinh năm 1954
99. Đỗ Thị Tỵ - Sinh năm 1943
100. Vũ Thị Váo - Sinh năm 1936
101. Vũ Thị Vuông - Sinh năm 1962
102. Vũ Thị Tý - Sinh năm 1960
103. Đoàn Thị Trạm - Sinh năm 1965
104. Nguyễn Thị Tiễn - Sinh năm 1939
105. Tạ Thị Thanh Xuân (Tạ Thị Xuân)- Sinh năm 1969
106. Thái Thị Hồng Xuân - Sinh năm 1941
107. Trần Sơn (Trần Viết Sơn)- Sinh năm 1981
108. Nguyễn Thị Sơn - Sinh năm 1941
109. Phạm Thị Phiên - Sinh năm 1950
110. Lê Thi Xuyên - Sinh năm 1962
111. Vũ Thị Lượt - Sinh năm  1962
112. Vũ Thị Tảo - Sinh năm 1952
113. Nguyễn Thị Ngợi - Sinh năm 1955
114. Nguyễn Thị Núi - Sinh năm 1936
115. Trần Thị Hồng Thắm - Sinh năm 
116. Tống Thị Thanh - Sinh năm 1936
117. Lê Văn Tiến - Sinh năm 1960
118. Nguyễn Thị Rật - Sinh năm 1942
Ngày 15/01/2013  Tòa án Nhân dân thành phố Hạ Long xét xử sơ thẩm vụ án hành chính “Khởi kiện quyết định hành chính” và ra bản án số 02/2013/HCST xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của HTX Rau Chiến Thắng, thành phố Hạ Long và yêu cầu của 118 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan do tôi làm đại diện .
Do Tòa án Hạ Long xét xử không đúng pháp luật gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của 118 người liên quan, ngày 20/01/2013, thay mặt 118 người liên quan tôi đã  làm đơn kháng cáo toàn bộ đối với bản án  hành chính sơ thẩm số 02/2013/HCST của Tòa án Nhân dân thành phố Hạ Long để đề nghị Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Ninh giải quyết lại vụ án. Hiện nay Tòa án tỉnh Quảng Ninh đã có Quyết định thụ lý vụ án để giải quyết theo trình tự phúc thẩm. 
Trên cơ sở nghiên cứu toàn văn bản án sơ thẩm, tôi xin gửi quý Tòa văn bản trình bày ý kiến chi tiết về nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo đối với bản án sơ thẩm của Tòa Hạ Long cụ thể như sau:
I- Các nội dung kháng cáo đối với bản án sơ thẩm: 4 nội dung
1.1.Nội dung kháng cáo về quyết định xử bác yêu cầu của 118 xã viên là người có quyền và lợi ích liên quan trong vụ án về việc yêu cầu hủy Quyết định số 1841/QĐ-UBND ngày 31/12/2009.
1.2.Nội dung kháng cáo về quyết định xử bác yêu cầu xin hủy Quyết định số 1038/QĐ-UBND ngày 07/8/2009 của UBND TP. Hạ Long.
1.3. Nội dung kháng cáo về quyết định xử không chấp nhận xem xét yêu cầu hủy Văn bản số 301/UBND  ngày 14/02/2011 của UBND TP. Hạ Long .
1.4. Nội dung kháng cáo về quyết định xử không chấp nhận yêu cầu UBND thành phố Hạ Long bồi thường thiệt hại.
II- Các căn cứ của việc kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
2.1. Đối với nội dung kháng cáo thứ nhất:
Bản án sơ thẩm quyết định xử bác yêu cầu xin hủy Quyết định số 1841/QĐ-UBND ngày 31/12/2009 “ V/v phê duyệt điều chỉnh bổ sung giá đất ở liền kề để tính hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư của HTX trồng rau Chiến Thắng quản lý để thực hiện dự án xây dựng Khu đô thị Bãi Muối, phường Cao Thắng, TP. Hạ Long” do Phó Chủ tịch Phạm Hồng Hà ký (gọi tắt là Quyết định 1841) vì cho rằng quyết định hành chính này đã được UBND TP. Hạ Long ban hành về “thẩm quyền, hình thức và nội dung đảm bảo đúng quy định của Nhà nước và pháp luật” trên cơ sở lập luận: 
-UBND thành phố Hạ Long thực hiện theo Văn bản 763/TCQLĐĐ-CKTPTQĐ ngày 29/5/2009 do ông Lê Thanh Khuyến-Phó Tổng cục trưởng Tổng cục quản lý đất đai –Bộ Tài nguyên và Môi trường ký hướng dẫn thực hiện theo Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31/1/2008 của Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường “Hướng dẫn một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/7/2007 của Chính phủ Quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai”–(trong đó có điểm 3 mục VII hướng dẫn việc hỗ trợ đối với đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư và đất vườn, ao liền kề với đất ở trong khu dân cư quy định tại điều 43 Nghị định số 84) là đúng quy định của Nhà nước vì “Bộ Tài nguyên và Môi trường là Cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai ở Trung ương nên UBND thành phố Hạ Long là Cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương cấp huyện thuộc tỉnh phải thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp trên” (trang 18).
-Dựa vào văn bản này, án sơ thẩm kết luận: việc UBND thành phố Hạ Long ban hành Quyết định 1841 phê duyệt giá đất ở liền kề để làm căn cứ tính hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp cho các xã viên và cá nhân nhận thầu đất của HTX rau Chiến Thắng để thực hiện dự án Khu đô thị Bãi Muối theo “phương pháp tính bình quân gia quyền” theo quy định tại điểm 3 mục VII Thông tư liên tịch 14 là “đảm bảo đúng quy định của Nhà nước và pháp luật” (trang 19).
Kết luận nêu trên của án sơ thẩm là trái quy định của pháp luật và không phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa sơ thẩm vì: 
(i)Việc áp dụng phương pháp bình quân gia quyền là trái với khoản 2 điều 21 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư –là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ban hành Quyết định 1841.
(ii)Theo quy định tại điều này thì giá đất ở làm căn cứ tính hỗ trợ là  “giá đất ở trung bình của khu vực có đất thu hồi theo quy định trong Bảng giá đất của địa phương” (tức là theo phương pháp “trung bình cộng” chứ không phải “bình quân gia quyền”).
(iii)Việc UBND TP. Hạ Long căn cứ vào Văn bản 763 hướng dẫn điểm 3 mục VII Thông tư liên tịch 14 để áp dụng phương pháp tính “bình quân gia quyền” là không đúng vì văn bản này chỉ có tính chất “trao đổi nghiệp vụ”, không phải là “văn bản quy phạm pháp luật” thể hiện tại Văn bản số 19/TTr-TDXLĐT ngày 12/01/2012 V/v. trả lời khiếu nại của công dân của  Phó Chánh Thanh tra- Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời đơn khiếu nại của ông Vũ Hồng Quân –Chủ nhiệm HTX Rau Chiến Thắng đối với Văn bản 763 do ông Lê Thanh Khuyến ký, đã trả lời như sau: 
“ Văn bản 763/TCQLĐĐ-CKTPTQĐ ngày 29/5/2009 của Tổng cục quản lý đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường) gửi Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ninh, là văn bản trao đổi nghiệp vụ, không phải là đối tượng khiếu nại hành chính theo quy định của pháp luật về khiếu nại. 
Nội dung khiếu nại việc bồi thường, hỗ trợ cho Hợp tác xã khi Nhà nước thu hồi đất, đề nghị ông gửi đơn đến Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh để được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật”.
(iv)Bản án sơ thẩm cho rằng: Văn bản 763 là văn bản của Bộ tài nguyên và môi trường- Cơ quan quản lý về đất đai ở Trung ương nên UBND thành phố Hạ Long “phải thực hiện theo hướng dẫn” là không đúng vì văn bản này không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Căn cứ điều 6 Luật đất đai về Quản lý nhà nước về đất đai đã quy định “ Nhà nước thống nhất quản lý về đất đai (khoản 1).Khoản 2. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai bao gồm:a) Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó”. Do đó, chỉ có văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành thì UBND thành phố Hạ Long mới  phải thực hiện theo. 
(v)Hơn nữa nếu Văn bản 763 là văn bản quy phạm pháp luật thì theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 12/6/2008 thì văn bản pháp luật cấp Bộ không thể cao hơn Nghị định của Chính phủ (Nghị định 69). (Tại khoản 2 điều 83 về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật quy định như sau: “ Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”).
(vi)Không có cơ sở để thực hiện theo Văn bản 763 vì tại thời điểm ban hành Quyết định 1841 thì điểm 3 mục VII Thông tư liên tịch 14 ngày 31/1/2009 cũng không còn hiệu lực thể hiện tại văn bản số 1091/TCQLĐĐ-CQHĐĐ V/v tính giá đất khi thu hồi đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư ngày 6/9/2011 do ông Đào Trung Chính- Phó Tổng cục trưởng Tổng cục quản lý đất đai –Bộ Tài nguyên và Môi trường ký trả lời Công ty luật TNHH Hoàng Long như sau: “Điểm 3 mục VII của Thông tư liên tịch 14 hướng dẫn chi tiết điều 43 của Nghị định 84, sau đó điểm d khoản 2 điều 41 của Nghị định 69 đã bãi bỏ điều 43 của Nghị định 84”.
(Ghi chú: Xem chi tiết về các căn cứ yêu cầu hủy quyết định hành chính này trình bày tại mục III.3.1).
2.2. Đối với nội dung kháng cáo thứ hai: 
Bản án sơ thẩm xử bác yêu cầu xin hủy Quyết định số 1038/QĐ-UBND ngày 07/8/2009 “ V/v phê duyệt kế hoạch tổ chức phá dỡ lều bạt trái phép cản trở thi công tại đường vào dự án Khu đô thị Bãi Muối thuộc tổ 40, khu 4 phường Cao Thắng” do Chủ tịch Đào Xuân Đan ký ( sau đây gọi tắt là Quyết định 1038) “về thẩm quyền, hình thức và nội dung đảm bảo đúng quy định của Nhà nước và pháp luật” (trang 19).
Bản án sơ thẩm lập luận như sau: Ngày 23/2/2009 UBND thành phố Hạ Long đã phê duyệt phương án hỗ trợ bổ sung số 145/QĐ-UBND, Chủ dự án đã tiến hành chi trả tiền hỗ trợ cho các xã viên, hợp tác xã và các xã viên đã nhận tiền và ký biên bản bàn giao mặt bằng, trong khi chủ dự án đang thi công thì các xã viên tự ý dựng lều lán trên đất đang thi công gây cản trở thi công, làm chậm tiến độ của dự án, nên việc UBND thành phố Hạ Long ban hành Quyết định 1038 ngày 7/8/2009 “về thẩm quyền, hình thức và nội dung đảm bảo đúng quy định của Nhà nước và pháp luật” (trang 19).
Kết luận như nêu trên của án sơ thẩm là trái pháp luật và không phù hợp với các tình tiết khách quan có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa sơ thẩm. 
+ Việc UBND TP. Hạ Long ban hành Quyết định 1038 là trái với Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ “V/v xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai” (đây là 1 trong các căn cứ pháp lý để ban hành quyết định): 

(i)Trong Quyết định không chỉ rõ hành vi dựng lều bạt thuộc trường hợp nào quy định tại điều 3 của Nghị định 182 về các hành vi hành chính bị xử phạt hành chính cũng như hình thức xử phạt hành chính nào theo quy định tại điều 6 của Nghị định. Đây là sự thể hiện sự không hợp pháp về hình thức của Quyết định 1038.
(ii) Quyết định 1038 đã xác định hành vi của “các xã viên tự ý dựng lều lán trên đất đang thi công gây cản trở thi công” nên phê duyệt tổ chức “phá dỡ lều bạt trái phép” là trái với điểm d khoản 1 điều 3 Nghị định 182 là hành vi “Gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác”. Tại khoản 4 điều 4 Nghị định giải thích hành vi như sau:  “Gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác là hành vi đưa vật liệu xây dựng, chất thải hay các vật khác lên thửa đất của người khác hoặc đào bới mà hành vi này gây cản trở, làm giảm khả năng sử dụng đất của người khác hoặc gây thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác”.
- Trong Quyết định 1038 chỉ rõ đối tượng bị phá dỡ là lều bạt dựng trái phép trên “đường đi vào dự án”chứ không phải trên đất đã bàn giao cho chủ dự án “đang thi công”.
 - Ngày 20/4/2007 UBND tỉnh Quảng Ninh ban hành Quyết định số 1182/QĐ-UBND thu hồi 253m2 tại phường Cao Thắng và Hà Lầm giao cho UBND thành phố Hạ Long thực hiện bồi thường, hỗ trợ, GPMB để xây dựng Khu đô thị Bãi Muối do Chủ dự án là Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 5-Chi nhánh Quảng Ninh thực hiện. Sau đó UBND thành phố Hạ Long ban hành các quyết định thu hồi đất đối với 126 hộ gia đình bị thu hồi đất gồm xã viên và các cá nhân nhận thầu đất của HTX. Căn cứ vào quyết định này tính ra diện tích đất bị thu hồi đợt 1 tổng cộng là 100.909,7m2 gồm 463 thửa. Trong số 126 hộ thì có 33 hộ không bị thu hồi hết đất họ vẫn đang sử dụng số đất còn lại (có bảng kê kèm theo).  
-Trong khu vực đất của HTX quản lý tại phường Cao Thắng, ngoài diện tích của 126 hộ bị thu hồi thì vẫn còn một số diên tích chưa bị thu hồi gồm: 4.704,9m2 của 33 hộ và diện tích kênh mương nội đồng do HTX quản lý.  Trong đó có 9.821m2 thuộc 22 thửa tờ bản đồ số 3 và 4 bản đồ thành phố giao đất cho HTX năm 1997 đã bị lấy nhưng không có quyết định thu hồi của tỉnh, còn lại 1.216,9m2 chưa bị thu hồi. 
(iii) Lý do các xã viên dựng lều bạt dựng trên đường đi vào khu đô thị Bãi Muối thuộc HTX quản lý để yêu cầu chủ dự án phải thực hiện hỗ trợ đúng quy định của pháp luật nên việc UBND thành phố Hạ Long ban hành quyết định cưỡng chế phá dỡ lều bạt và bàn giao toàn bộ diện tích này cho chủ dự án là trái pháp luật vì:
- Cho đến nay UBND tỉnh Quảng Ninh vẫn chưa có quyết định thu hồi số đất còn lại do HTX Rau Chiến Thắng quản lý tại khu vực dự án khu đô thị Bãi Muối. Đây là phần đất do bà con xã viên chừa lại từ phần đất được HTX chia để đào đắp phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp cho các xã viên. Theo Quyết định 1038 phê duyệt kế hoạch phá dỡ số lều bạt dựng tại đường đi vào dự án thuộc khu vực diện tích của HTX vẫn quản lý.Tuy đất này có mục đích sử dụng là đất nông nghiệp nhưng không phải đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng (theo điều 71 Luật đất đai) và cũng không phải đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn (theo điều 72 Luật đất đai). 
- Căn cứ điều 24 Luật đất đai quy định khi Nhà nước thu hồi đất thì sẽ được giao đất mới cùng mục đích, nếu không có đất mới để giao thì bồi thường bằng tiền cho toàn bộ diện tích đất bị thu hồi. Theo quy định tại điều 9 Nghị định 197 khi thu hồi đất thì Nhà nước bồi thường, hỗ trợ cho HTX là người đang sử dung đất đối với toàn bộ diên tích đất bị thu hồi. Tại buổi đối thoại ngày 14/8/2012 đại diện của UBND thành phố Hạ Long, ông Nguyễn Văn Nhã đã tiếp thu ý kiến của bà con về việc sẽ xem xét hỗ trợ thêm cho HTX đối với diện tích kênh mương nêu trên. Tổng giá trị hỗ trợ là 172 triệu đồng.
(Ghi chú: Xem chi tiết về các căn cứ yêu cầu hủy quyết định hành chính này trình bày tại mục III.3.2).
2.3. Đối với nội dung kháng cáo thứ ba:
Bản án sơ thẩm cho rằng Văn bản số 301/UBND  ngày 14/02/2011 của UBND TP. Hạ Long “ V/v giải quyết kiến nghị của 126 hộ xã viên HTX trồng rau Chiến Thắng, thuộc dự án Khu đô thị Bãi Muối tại phường Cao Thắng” không phải là quyết định hành chính thuộc đối tương khởi kiện vì đây là văn bản giải quyết khiếu nại đối với Quyết định số 1841 nhưng “không có nội dung nào bãi bỏ hoặc thay thế nội dung nào của Quyết định trên” (trang  19-20).
Lập luận nêu trên của bản án sơ thẩm là không đúng vì: 
-Văn bản 301 được ban hành sau khi có khiếu nại của 126 hộ xã viên HTX về việc UBND thành phố Hạ Long áp dụng phương pháp bình quân gia quyền để xác định giá đất ở liền kề làm căn cứ tính hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp thực hiện dự án Khu đô thị Bãi Muối. 
-Trong nội dung QĐ 1841 không có câu chữ nào về phương pháp bình quân gia quyền, chỉ ra con số 1378.000đ, nên việc bổ sung nội dung trong Công văn 301 đã giải thích là do áp dụng phương pháp bình quân gia quyền.
Trong Văn bản 301 chứa đựng các nội dung bổ sung một phần cho Quyết định 1841 đó là nội dung về “phương pháp tính giá đất ở để tinh hỗ trợ” và nội dung về” căn cứ để tính theo phương pháp bình quân gia quyền” cụ thể:
(i)Phương pháp tính giá đất ở để xác định giá hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư như sau: “theo phương pháp phân vùng diện tích đất nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi các mức giá đất ở gần nhất và tính bình quân gia quyền cho toàn bộ khu đất bị thu hồi thuộc dự án Khu đô thị Bãi Muối theo phương pháp tính bình quân gia quyền là đúng quy định tại thời điểm bồi thường và phù hợp với thực tế” (trang 2).
(ii) Bổ sung thêm căn cứ để tính theo phương pháp bình quân gia quyền là: “ Căn cứ Văn bản 763/TCQLĐĐ-CKTPTQĐ ngày 29/5/2009 của Tổng cục quản lý đất đai –Bộ Tài nguyên và Môi trường V/v. cách xác định giá đất ở để tính hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư…” (trang 1).
Do cả 2 nội dung trên đều không có trong Quyết định 1841 nên văn bản 301 do Phó Chủ tịch UBND TP. Hạ Long Vũ Văn Hợp ký ban hành là quyết định hành chính thể hiện dưới hình thức công văn, thuộc đối tượng bị khởi kiện vì chứa đựng nội dung bổ sung một phần Quyết định 1841 do UBND TP. Hạ Long ban hành để giải quyết hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp do HTX quản lý bị ảnh hưởng bởi dự án khu đô thị Bãi Muối.
2.4. Nội dung kháng cáo thứ 4: 
Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại vì cho là các quyết định hành chính do UBND TP. Hạ Long ban hành là đúng quy định của Nhà nước không gây thiệt hại cho người khởi kiện và 118 người liên quan (trang  21).
Kết luận nêu trên của án sơ thẩm là không đúng vì có căn cứ để yêu cầu UBND TP. Hạ Long phải bồi thường thiệt hại vì: 
(i)Ban hành quyết định hành chính trái pháp luật cụ thể Quyết định 1841:Áp dụng phương pháp xác định giá đất ở liền kề để làm căn cứ tính hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư theo “bình quân gia quyền” trái với khoản 2 điều 21 Nghị định 69.
(ii) Có thiệt hại thực tế: Vì áp dụng phương pháp bình quân gia quyền nên làm thiệt mỗi mét vuông bị mất là 239.400 đồng tiền hỗ trợ. Thiệt hại của từng người liên quan do tính không đúng đã được cung cấp cho Tòa án sơ thẩm theo phương pháp: lấy 239.400đ nhân (X) với diện tích đất bị thu hồi của từng người ( tôi đã cung cấp bảng tính số tiền thiệt hại thực tế của từng xã viên cho tòa án cấp sơ thẩm).
(iii)Mối quan hệ nhân quả giữa việc ban hành quyết định 1841 với thiệt hại thực tế thể hiện: Nếu tại thời điểm ban hành quyết định mà UBND TP. Hạ Long áp dụng khoản 2 điều 21 Nghị định 69 thì các xã viên sẽ được nhận đủ tiền hỗ trợ.
+ Mức yêu cầu bồi thường về vật chất: Là tiền lãi theo quy định của ngân hàng tương ứng với số tiền hỗ trợ bị thiếu của từng người kể từ thời điểm tháng 12/2009 đến thời điểm xét xử sơ thẩm (có bảng tính lãi gửi tòa án cấp sơ thẩm). 
+ Do ban hành quyết định cưỡng chế 1038 trái pháp luật nên yêu cầu bồi thường về tinh thần theo quy định của pháp luật.  
    III-Các tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của Hợp tác xã và của 118 người liên quan đối với quyết định 1841 và 1038 là có căn cứ và hợp pháp:
3.1.Về Quyết định số 1841/QĐ-UBND ngày 31/12/2009:
Đây là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, cụ thể phê duyệt giá đất ở liền kề để tính hỗ trợ khi  Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Căn cứ giá đất ở liền kề được phê duyệt theo quyết định 1841 là 1.378.000đ/m2 (từ đó tính hỗ trợ cho mỗi mét vuông đất nông nghiệp bằng 20% là 275.600đ/1m2),  ngày 05/01/2010 UBND TP. Hạ Long đã ban hành Quyết định số 02/QĐ-UBND phê duyệt phương án BT, HT bổ sung cho 126 hộ gia đình, cá nhân là xã viên và nhận thầu đất nông nghiệp HTX trồng rau Chiến Thắng thuộc diện GPMB dự án xây dựng Khu đô thị Bãi Muối tại phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long trong đó có 118 người liên quan mà tôi là đại diện. 
Quyết định 1841đã làm thiệt hại cho những người liên quan vì mỗi mét vuông đất nông nghiệp bị thiếu là 239.400 đồng (căn cứ bảng giá đất ở do UBND tỉnh Quảng Ninh công bố năm 2009) do không áp dụng phương pháp “trung bình” để tính giá đất ở liền kề theo quy định của Nghị định số 69 ngày 13/8/2009 của Chính phủ-là văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ban hành quyết định số 1841 mà áp dụng phương pháp “bình quân gia quyền”.
 Các tài liệu, chứng cứ chứng minh việc ông Phạm Hồng Hà- Phó Chủ tịch UBND TP. Hạ Long ký ban hành Quyết định 1841 không hợp pháp về mặt thẩm quyền và về nội dung.
1- Không hợp pháp về thẩm quyền .
     + Căn cứ văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ban hành quyết định 1841- Nghị định của Chính phủ số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004  Về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (có hiệu lực thi hành từ 1/10/2009) thì thẩm quyền phê duyệt giá đất ở để tính hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh được quy định tại điều luật sau:
-Điểm d khoản 1 điều 43 Nghị định 197: “UBND cấp tỉnh có thẩm quyền phê duyệt giá đất, quy định các mức hỗ trợ và các biện pháp hỗ trợ không được phân cấp cho UBND cấp huyện. Còn thẩm quyền của UBND cấp huyện được quy định tại điểm b khoản 2 điều này: “UBND cấp huyện chỉ có thẩm quyền thực hiện phê duyệt phương án bồi thường,hỗ trợ, tái định cư theo phân cấp của UBND cấp tỉnh”. 
-Khoản 3 điều 21 Nghị định 69 về Hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất vườn, ao không được công nhận là đất ở quy định “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể tỷ lệ hỗ trợ, diện tích đất được hỗ trợ và giá đất ở trung bình để tính hỗ trợ cho phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương”.
Như vậy, theo quy định nêu thì UBND tỉnh Quảng Ninh không được phân cấp cho UBND thành phố Hạ Long phê duyệt giá đất ở liền kề xen kẽ trong khu dân cư để tính hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp do HTX Rau Chiến Thắng quản lý. 
+ Căn cứ các quyết định của UBND tỉnh Quảng Ninh quy định về cơ chế hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp thuộc diện giải phóng mặt bằng dự án khu đô thị Bãi Muối tại phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long cung không phân cấp hoặc ủy quyền cho UBND thành phố Hạ Long:
Trong quá trình thực hiện dự án Khu đô thị Bãi Muối, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành 4 quyết định hành chính quy định về cơ chế bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp do HTX Rau Chiến Thắng quản lý gồm:
-Quyết định số 2833/QD-UBND  ngày 8/8/2007 /QĐ-UBND phê duyệt cơ chế bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện dự án Khu đô thị Bãi Muối. Quyết định này là phê duyệt giá đất ở liền kề để tính hỗ trợ đất nông nghiệp cho đến nay vẫn còn hiệu lực vì chưa có quyết định nào của tỉnh Quảng Ninh thay thế hoăc hủy bỏ ( trừ phần nội dung về giá đất ở liền kề 800.000đ/1m2 không có hiệu lực vì bị thiếu 2 điểm).
-Quyết định số 948/QĐ-UBND ngày 3/4/2008. Quyết định này là phê duyệt giá đất ở liền kề và được thay thế bằng Quyết định 1881.
-Quyết định 1881/QĐ-UBND ngày 23/2/2009. Quyết định này được thay thế bằng Quyết định 280/QĐ-UBND.
-Quyết định 280/QĐ-UBND ngày 6/6/2009. Căn cứ điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ngày 3/12/2004 quy định “văn bản do UBND ban hành phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của Cơ quan Nhà nước cấp trên”. Tuy Quyết định này tuy chưa có quyết đinh nào thay thế hoặc hủy bỏ nhưng vì trái quy định của Thông tư liên tịch 14 nên phần nội dung về phương pháp bình quân gia quyền để xác định giá đất ở liền kề không có hiệu lực thi hành. 
Trong các quyết đinh nêu trên của tỉnh Quảng Ninh thì không có quyết định nào có nội dung phân cấp hoặc ủy quyền cho UBND TP. Hạ Long “phê duyệt giá đất ở liền kề” để tính hỗ trợ đất nông nghiệp mà chỉ có nội dung “ giao cho UBND thành phố Hạ Long “xác định giá đất ở liền kề” (Quyết định 1881, Quyết định 280).
Kết luận: Như vậy việc ông Phạm Hồng Hà – chức vụ Phó Chủ tich UBND TP. Hạ Long ký ban hành Quyết định số 1841 phê duyệt điều chỉnh bổ sung giá đất ở liền kề để tính hỗ trợ đất nông nghiệp là không đúng thẩm quyền luật định.
2- Không hợp pháp về nội dung.
Thể hiện ở phần nêu các căn cứ để ban hành quyết định hành chính (viện dẫn thiếu văn bản pháp luật, căn cứ điều luật đã bị bãi bỏ hiệu lực pháp luật, căn cứ các văn bản không phải văn bản quy phạm pháp luật, không phù hợp với sự thực khách quan): 
+ Viện dẫn thiếu văn bản pháp luật: Thiếu Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ Quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, có hiệu lực thi hành từ 1/10/2009.
Đây là văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ban hành quyết định 1841( ngày 31/12/2009). Căn cứ để chứng minh việc áp dụng Nghị định này là theo điều 39 Xử lý một số vấn đề phát sinh khi ban hành Nghị định số 69 như sau:
Khoản 3 điều 39 quy định: “ Đối với những dự án, hạng mục đã chi trả xong bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành thì không áp dụng hoặc không điều chỉnh theo quy định Nghị định này”
Khoản 4 quy định: “ Đối với những dự án, hạng mục đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoặc đang thực hiện chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo phương án đã được phê duyệt trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành thì thực hiện theo phương án đã phê duyệt, không áp dụng hoặc điều chỉnh theo quy định Nghị định này. Trường hợp thực hiện bồi thường chậm thì giá đất để thực hiện bồi thường, hỗ trợ thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP”.
Do hạng mục hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư thuộc dự án khu đô thị Bãi Muối chưa chi trả xong, cũng chưa có phương án phê duyệt (bởi căn cứ quyết định số 1841, ngày 05/01/2010 UBND thành phố Hạ Long mới ban hành Quyết định số 02/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho 126 xã viên HTX Trồng rau để thực hiện dự án Khu đô thị Bãi Muối trong đó có 118 người liên quan) nên áp dụng Nghị định này.
+ Không căn cứ vào văn bản pháp luật có hiệu lực thi hành: Cụ thể là khoản 2 điều 21 Nghị định 69 quy định về hỗ trợ đất nông nghiệp như sau: 
“Hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất nông nghiệp trong địa giới hành chính phường, trong khu dân cư thuộc thị trấn, khu dân cư nông thôn; thửa đất nông nghiệp tiếp giáp với ranh giới phường, ranh giới khu dân cư thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp còn được hỗ trợ bằng 20% - 50% giá đất ở trung bình của khu vực có đất thu hồi theo quy định trong Bảng giá đất của địa phương; diện tích được hỗ trợ không quá 05 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương”.
Theo quy định nêu trên thì việc UBND TP. Hạ Long phê duyệt giá đất ở bình quân 1.380.000 đ/m2 như nêu trong Quyết định 1841 do áp dụng phương pháp “bình quân gia quyền” là trái luật vì luật quy định phải căn cứ vào giá đất ở “trung bình” tại khu vực có đất bị thu hồi để tính hỗ trợ.
+ Căn cứ vào điều luật đã bị bãi bỏ: UBND TP. Hạ Long khi ban hành quyết định 1841 vào ngày 31/12/2009 đã căn cứ điều 43 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai là không đúng vì điều này đã bị điểm đ khoản 2 điều 41 Nghị định 69 bãi bỏ.
+ Căn cứ vào các văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp luật để ban hành như : 
- Công văn 4894 /UBND-TD ngày 10/12/2009 của UBND tỉnh Quảng Ninh
- Báo cáo ngày 20/12/2009 của HTX Rau Chiến Thắng
- Biên bản làm việc ngày 23/12/2009.
+ Trái quy định của UBND tỉnh Quảng Ninh:
Tại điểm a khoản 2 điều 1 Quyết định 2833 ngày 8/8/2007 quy định về hỗ trợ đất nông nghiệp trong khu dân cư đối với người có đất được giao theo cơ chế khoán 10 theo quy định tại điểm 1.1, khoản 1, điều 13 Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 1122/QĐ-UB ngày 20/4/2005 của UBND tỉnh về nội dung “mức hỗ trợ 20%, giá đất ở là theo cách tính bình quân” phê duyệt cơ chế bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện dự án Khu đô thị Bãi Muối. Tại điểm a khoản 2 điều 1 quy định mức hỗ trợ theo quy định tại điểm 1.1, khoản 1 điều 13 Quyết định 1122 ngày 20/4/2005 của UBND tỉnh Quảng Ninh. Mức hỗ trợ là 20% đất ở bình quân các mức giá đất ở liền kề.
Tại điểm 1.1, khoản 1 điều 13 QĐ 1122 của UBND tỉnh Quảng Ninh quy định mức hỗ trợ là 20% giá đất ở bình quân liền kề.
3.2. Về Quyết định số 1038/QĐ-UBND ngày 07/8/2009.
Về bản chất đây là quyết định cưỡng chế GPMB để bàn giao đất cho chủ dự án. Hậu quả đã gây thiệt hại về vật chất, tinh thần và uy tín của HTX và các xã viên những người bị cưỡng chế phá dỡ lều bạt dựng trên đất của HTX, sau đó diện tích này đã được bàn giao cho chủ dự án mà không có quyết định thu hồi đất, không được bồi thường, hỗ trợ.
Sau đây là các tài liệu chứng cứ chứng minh việc UBND TP. Hạ Long ban hành Quyết định 1038 không hợp pháp về thẩm quyền, về hình thức, về trình tự ban hành và về nội dung:
1- Không hợp pháp về thẩm quyền .
(i)Trái với khoản 1 điều 47 Nghị định 197 ngày 3/12/2004 của Chính phủ quy định “Cơ quan quyết định thu hồi đất ra Quyết định cưỡng chế”. 
Việc sử dụng đất thực hiện Dự án Khu đô thị Bãi Muối theo Quyết định số 1182/QĐ-UBND  ngày 12/4/2007 của UBND tỉnh Quảng Ninh. Tại khoản 2 điều này quy định UBND cấp tỉnh phân cấp hoặc ủy quyền cho UBND cấp huyện ra quyết định cưỡng chế va tổ chức thực hiện cưỡng chế. Nhưng trong Quyết định  1038 không chỉ ra được văn bản phân cấp hoặc ủy quyền của UBND tỉnh cho ông Đào Xuân Đan- Chủ tịch UBND TP. Hạ Long ký quyết định cưỡng chế.
(ii)Trái với điểm b khoản 1 điều 28 Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ “V/v xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai”
Điều này quy định: khi xử lý vi phạm hành chính mà vi phạm hành chính đó thuộc trường hợp phải thu hồi đất quy định tại Điều 38 của Luật Đất đai thì “ Người có thẩm quyền xử phạt quy định tại các Điều 25, 26 và 27 của Nghị định này nhưng không có thẩm quyền thu hồi đất thì thực hiện xử phạt vi phạm hành chính và có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất. Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có trách nhiệm thực hiện việc thu hồi đất đối với trường hợp đủ căn cứ; trường hợp không đủ căn cứ theo quy định của pháp luật về đất đai thì phải thông báo cho người đề nghị, người bị xử phạt, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất biết rõ lý do”.
Ngày 2/12/2009 UBND TP. Hạ Long giao cho UBND phường Cao Thắng tổ chức cưỡng chế phá dỡ các lều bạt dựng trên khu vực đất của HTX rau Chiến Thắng và bàn giao diện tích này cho chủ dự án mà không có quyết định thu hồi đất của UBND tỉnh Quảng Ninh – là cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất đối với tổ chức, là hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại cho HTX và làm lợi cho chủ dự án.
2.Không hợp pháp về trình tự, thủ tục ban hành .
(i) Trái Nghị định 197 ngày 3/12/2004 và Nghị định 84 ngày 25/7/2007 của Chính phủ như sau:
Trong quyết định nêu một trong những căn cứ ban hành là “xét đề nghị của UBND phường Cao Thắng tại Tờ trình số 36 ngày 6/8/2008”- tức là chỉ 1 ngày thì Quyết định 1038 được ban hành (ngày 7/8/2009) thể hiện việc ban hành quyết định hành chính này là trái với trình tự thủ tục quy định tại khoản 1 điều 47 Nghị định 197, điều 80 Nghị định 84 ngày 25/7/2007 của Chính phủ như sau:
+Theo quy định tại khoản 1 điều 47 Nghị định 197 việc cưỡng chế GPMB chỉ thực hiện khi UBND thành phố đã “thực hiện đúng quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và người có đất bị thu hồi cố tình không thực hiện QĐ thu hồi đất”. 
- Nhưng trên thực tế thì việc hỗ trợ cho các xã viên HTX Rau Chiến Thắng vẫn chưa thực hiện xong thể hiện: ngày 2/12/2009 UBND TP. Hạ Long tiến hành cưỡng chế thực hiện quyết định 1038 thì 31/12/2009 Uỷ  ban ban hành Quyết định 1841 phê duyệt hỗ trợ thêm cho mỗi mét vuông đất nông nghiệp bị thu hồi là 9.800đ và ngày 5/1/2010 ban hành Quyết định 02 phê duyệt phương án hỗ trợ bổ sung cho 126 xã viên của HTX Rau Chiến Thắng.
-Và chưa thực hiện hỗ trợ đúng  (kể cả khi áp dụng phương pháp bình quân gia quyền) thể hiện: Ngày 10/10/2012 các xã viên lại phát hiện thêm hành vi gian dối trong khi xác định diện tích vùng 1 và vùng 8 hậu quả làm giảm đi mỗi mét vuông là 11.500đ. Tổng số tiền thiếu là 1,5 tỷ đồng (mặc dù áp dụng phương pháp bình quân gia quyền).
Hiện nay vẫn chưa thực hiện đủ nên 118 xã viên vẫn đang kháng cáo bản án của tòa án Hạ Long yêu cầu UBND TP. Hạ Long phải trả đủ tiền hỗ trợ theo quy định của pháp luật. Vì nếu áp dụng phương pháp tính bình quân thì số tiền còn thiếu mỗi mét vuông là 239.400đ. Tổng cộng số tiền thiếu là trên 30 tỷ như ông Nguyễn Vũ Hải đã thừa nhận.
- Ngày 8/10/2012 UBND thành phố còn gửi giấy mời cho HTX và 1 số xã viên đến họp để giải quyết vướng mắc trong công tác bồi thường GPMB dự án xây dựng khu đô thị Bãi Muối tại phường Cao Thắng, TP. Hạ Long đối với HTX Trồng rau Chiến Thắng vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 10/10/2012 cùng với các thành phần.
+Theo quy định tại khoản 1 điều 80 Nghị định 84 việc cưỡng chế chỉ thực hiện khi đã “thực hiện đúng các điều từ điều 50 đến điều 59; phải có quyết định cưỡng chế có hiệu lực” (điểm d). Nhưng như phân tích ở trên thì quyết định 1038 chưa có hiệu lực pháp luật vì thiếu văn bản phân cấp và ủy quyền theo quy định tại khoản 1 điều 47 Nghị định 197. 
(ii) Trái với Nghị định 69 ngày 13/8/2009 về trình tự thủ tục, thực hiện cưỡng chế cụ thể:
- Theo Điều 59 quy định trong quyết định cưỡng chế phải ghi thời gian cụ thể (là thời điểm tự phá dỡ lều bạt trái phép) để bàn giao đất cho chủ dự án thi công…nhưng trong Quyết định 1038 chỉ có nội dung “phê duyệt kế hoạch tổ chức phá dỡ lều bạt trái phép”. Do đó không có điều kiện để thực hiện Điểm b khoản 1 điều này quy định điều kiện tiến hành cưỡng chế:  là đã quá 30 ngày kể từ thời điểm phải bàn giao đất mà không bàn giao…thì mới được tiến hành cưỡng chế.  Do trong Quyết định 1038 không ghi thời gian phải bàn giao mặt bằng nên việc cưỡng chế tiến hành vào ngày 2/12/2009 để bàn giao đất cho chủ dự án là trái luật.
3. Về hình thức:
- Trong Quyết định thiếu ghi căn cứ ban hành là Quyết định số 1182/QĐ-UBND của tỉnh Quảng Ninh nên không phải là Quyết định hành chính về giải phóng mặt bằng cưỡng chế thu hồi đất theo quy định của khoản 1 điều 39 Luật đất đai.
- Căn cứ tiêu đề của quyết định “phê duyệt kế hoạch tổ chức phá dỡ lều bạt trái phép cản trở thi công” nên đây là quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định 182 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai nhưng lại có hình thức và nội dung trái Nghị định này như sau:
- Trái với khoản 4 điều 7 của Nghị định 182 quy định: “Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì từng người vi phạm đều bị xử phạt”. Nhưng trong Quyết định 1038 không ghi đối tượng bị cưỡng chế là các cá nhân (xã viên) cụ thể.
- Không chỉ rõ căn cứ để áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị định này (cụ thể phá dỡ lều bạt để khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm).
4-Không hợp pháp về nội dung: 
Trái Luật đất đai và các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai
+  Căn cứ Quyết định 575/QĐ-UBND ngày 12/2/2007 của UBND tỉnh Quảng Ninh “về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng Khu đô thị Bãi Muối tại phường Cao Thắng và phường Hà Lầm, thành phố Hạ Long” trong đó thể hiện mục đích sử dụng đất có cả” xây nhà ở và dịch vụ thương mại” nên đây là dự án vì mục đích “kinh doanh” không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất quy định tại khỏan 1 điều 38, khoản 1 điều 40 Luật đất đai năm 2003.
Khi triển khai thi công thì các xã viên mới biết Chủ đầu tư là Chi nhánh Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 5 tại Quảng Ninh.
Một trong các căn cứ ban hành Quyết định 1038 là để thực hiện Quyết định 179/QĐ-UBND ngày 18/1/2008 của UBND tỉnh Quảng Ninh “V/v giao đất cho chi nhánh Tổng công ty XDGT 5 tại Quảng Ninh thực hiện dự án Khu đô thị Bãi Muối” . Căn cứ này là trái Luật đất đai và các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai cụ thể:
- Trái khoản 3 điều 39 Luật đất đai vì Nhà nước không thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, GPMB.
- Trái khoản 6 điều 36 Nghị định 181 ngày 3/12/2004: “Nhà nước không thực hiện việc thu hồi đất vào mục đích phát triển kinh tế đối với các dự án không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này….”
+Trái khoản 2 điều 47 Nghị định 197: Điều này quy định UBND TP. Hạ Long là cơ quan ra quyết định cưỡng chế và tổ chức thực hiện. Nhưng tại điều 2 Quyết định 1038 lại “giao cho UBND phường Cao Thắng thực hiện việc cưỡng chế”.

   IV- Đề nghị cụ thể của tôi:
Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ và phân tích nêu trên tôi đề nghị Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Ninh như sau:
4.1. Đề nghị Tòa án tỉnh Quảng Ninh xác định Quyết định số1841/QĐ-UBND ngày 31/12/2009, Quyết định số 1038/QĐ-UBND ngày 7/8/2009, Văn bản số 301/UBND ngày 14/2/2011 của UBND TP. Hạ Long là không hợp pháp về mặt thẩm quyền, về trình tự thủ tục ban hành, về mặt nội dung. 
4.2. Đề nghị Tòa án căn cứ khoản 2 điều 205 Luật tố tụng hành chính sửa toàn bộ án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu độc lập của 118 người liên quan tuyên hủy các quyết định nêu trên.
 4.3. Buộc UBND thành phố Hạ Long bồi thường tổn thất thiệt hại về tinh thần và vật chất cho 118 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ban hành các quyết định hành chính trái pháp luật (theo yêu cầu đã cung cấp tại tòa cấp sơ thẩm).
Xin trân trọng cảm ơn!
(Xin gửi tài liệu kèm theo: Gồm các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án nên tôi chỉ cung cấp bản pho to).
NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN
           CỦA 118 NGƯỜI CÓ QUYỀN LỢI NGHĨA VỤ LIÊN QUAN

Luật sư Phan Thị Hương Thủy ( đã kỹ)
Từ hoạt động trên, có thể nhận thấy việc ủy quyền cho đại diện sẽ giúp đương sự có những hành động pháp lý đúng đắn và cần thiết.

LawVietnam