QUAN ĐIỂM LUẬT SƯ Bào chữa cho bị cáo Thân Đức Hùng

Ngày cập nhật: 25/07/2011
QUAN ĐIỂM LUẬT SƯ Bào chữa cho bị cáo Thân Đức Hùng trong vụ án: “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ xẩy ra trong lĩnh vực quản lý đất đai-cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại địa bàn phường Sông Cầu và phường Phùng Chí Kiên thị xã Bắc Kạn”.

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bắc Cạn, ngày 30 tháng 11  năm 2008.




CÁO TRẠNG

VIỆN TR­ƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THỊ XÃ BẮC KẠN

 

- Căn cứ Điều 36, 166, 167 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Căn cứ Quyết định khởi tố vụ án Hình sự số 15 ngày 2 tháng 4 năm 2007 và các Quyết định khởi tố bị can số 80, 81 ngày 04 tháng 9 năm 2007 của Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Bắc Kạn đối với Hoàng Châu Giang và Thân Đức Hùng về tội: Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại điều 285 Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01 ngày 16/10/2008 của Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Bắc Kạn, khởi tố bổ sung vụ án hình sự  về tội: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo quy định tại điều 281 Bộ luật hình sự;

- Căn cứ Quyết định thay đổi Quyết định khởi tố bị can số 08 ngày 16 tháng 10 năm 2008 của Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh Bắc Kạn đối với bị can Hoàng Châu Giang, từ tội: Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng sang tội Lợi dụng chưc vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.

- Căn cứ Quyết định chuyển vụ án số 35 ngày 24/10/2008 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn chuyển vụ án đến Viện Kiểm sát Nhân dân thị xã Bắc Kạn chuyển vụ án đến Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bắc Kạn để truy tố theo thẩm quyền.

Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau:

1. Hành vi phạm tội của các bị can trong việc công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lưu không dọc hai bên tuyến đường Nguyễn Văn Tố trên địa bàn 2 phường Phùng Chí Kiên và Sông Cỗu, thị xã Bắc Kạn.:

Năm 1997 tỉnh Bắc Kạn được tái lập, thị xã Bắc Kạn trở thành trung tâm hành chính của tỉnh. Để tạo cơ sở cho sự phát triển của đô thị, năm 1998 UBND tỉnh Bắc Cạn đã ban hành Quyết định số 611 ngày 19/8/1998 phê duyệt quy hoạch chi tiết khu phía Nam và khu đào tạo Nà Mày, thị xã Bắc cạn giai đoạn 1998-2005; đến ngày 30/11/1999, UBND tỉnh Bắc cạn tiếp tục ban hành quyết định số 1490 về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết chia lô 4 khu chức năng thuộc khu phía Nam và quy hoạch chi tiết sử dụng đất khu  Bắc Sông Cỗu (hồ sơ do Công ty tư vấn xây dựng Đông Dương-ICC lập). Theo quy hoạch đã được phê duyệt này, có một trục đường 27m tránh thị xã Bắc cạn (lòng đường rộng 15m, hai vỉa hè mỗi vỉa hè rộng 6 m) chậy cắt từ quốc lộ 3 sang gặp đường 257 (thị xã Bắc cạn đi huyện Chợ Đồn)-nay được đặt tên là đường Nguyễn Văn Tố, dọc theo tuyến đường này tùy vào đại hình từng khu vực để bố trí các khu chế biến nông lâm sản, rau quả; khu dịch vụ công cộng và nhà bám mặt đường với mật độ thấp khoảng 120m2-150m2/hộ, lô 2 sẽ là nhà vườn làm kinh tế gia đình; một số khu cây xanh.

Để thực hiện xây dựng tuyến đường Nguyễn Văn Tố, UBND tỉnh Bắc cạn đã ban hành các Quyết định số 1230 và số 1206 ngày 31/12/1998; Quyết định số 1058 ngày 21/9/1999; số 118 ngày 18/02/2000 và số 1379 ngày 10/8/2001 để thu hồi 137.814m2 đất giao cho UBND thị xã Bắc cạn là Chủ đầu tư của dự án.

Trong quá trình thi công tuyến đường, sau khi đơn vị thi công san lấp mặt bằng xong, cắm chỉ giới xây dựng và cũng tại thwoif điểm này Phòng Địa chính thị xã Bắc cạn (nay được đổi tên thành Phòng Tài nguyên và Môi trường) đang thực hiện dự án cải cách thủ tục hành chính trong việc quản lý đất đai. Qua cập nhật thông tin và theo dõi biến động đất đai bằng công nghệ thông tin (máy vi tính), bị can Hoàng Châu Giang thấy dọc hai bên các tuyến đường mới thi công có dải đất đã được Nhà nước thu hồi và đền bù nhưng nằm ngoài chỉ giới xây dựng đường (từ nay về sau tạm gọi là đất lưu không). lấy lý do để quản lý số đất lưu không này không để các hộ dân lấn chiếm và thu tiền về cho ngân sách thị xã Bắc cạn, bị can Hoàng Châu Giang đã saonj thảo văn bản số 49 ngày 29/02/2000, đưa cho Hoàng Văn Thắng-nguyên là Trưởng phòng Đại chính xem qua rồi trình Chủ tịch UBND thị xã Bắc cạn (lúc này là ông Lý Văn Kim) ký, nội dung:

“Đề nghị UBND tỉnh Bắc cạn cho phép:

1- Thu hồi phần đất ngoài lộ giới (chỉ giới xây dựng) nhưng nằm trong chỉ giới thu hồi đất của các công trình xây dựng đường trong thị xã Bắc cạn để giao cho các hộ dân bị thu hồi, có nhu cầu cần san để xây dựng nhà (đối với khu quy hoạch dân cư);

2- Cho phép các hộ dân bị thu hồi đất tại vị trí đất nói trên được đào, đắp, tạo mặt bằng theo quy hoạch để làm nhà ở và phải làm thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nộp tiền chuyển đổi mục đích sử dụng đất”.

Nhưng UBND tỉnh không có công văn phúc đáp. Đến ngày 19/8/2002, bị can Hoàng Châu Giang lại tiếp tục soạn thảo công văn số 287, thông qua Trưởng phòng Hoàng Văn Thắng rồi trình ông lý Văn Kim-Chủ tịch UBND thị xã ký, nội dung vẫn đề nghị UBND tỉnh Bắc cạn về việc cho phép giao đất và thu tiền sử dụng đất lưu không dọc tuyến đường Nguyễn Văn Tố. Lần này, UBND tỉnh Bắc cạn đã có văn bản số 749 ngày 03/9/2002 trả lời công văn số 287 của UBND thị xã Bắc cạn, nội dung công văn nêu rõ:

“ Đồng ý cho phép UBND thị xã Băc cạn giao phần đất lưu không dọc tuyến đường Nguyễn Văn Tố ở một số vị trí phù hợp với quy hoạch chi tiết các khu dân cư cho các hộ dân sử dụng và thu tiền sử sử dụng đất theo quy định hiện hành của Nhà nước.

Để triển khai thực hiện công việc nêu trên, UBND tỉnh giao cho Sở Xây dựng chủ trì phối hợp vwois Sở Địa chính, Sở Tài chính-Vật giá và UBND thị xã Bắc Cạn lập hồ sơ chi tiết hcia lô toàn tuyến đường Nguyễn Văn Tố và xây dựng đơn giá đất báo cáo UBND tỉnh phe duyệt”.

Với nội dung văn bản sô 749, UBND tỉnh Bắc cạn đã giao trách nhiệm chính cho Sở Xây dựng chủ trì nhưng Sở xây dựng thấy không phải là chức năng, nhiệm vụ của mình nên đã không triển khai thực hiện nhưng cũng không có văn bản nào để báo cáo lại vấn đề này cho UBND tỉnh nắm được.

Tháng 8/2003, ông Lý Văn Kim chuyển công tác nên có bàn giao công việc của Chủ tịch lại cho ông Lê Văn Khương-phó Chủ tịch UBND thị xã Bắc cạn, nhưng không bàn giao cụ thể từng việc. Cuộc họp này có sự tham dự của bị can Thân Đức Hùng lúc đó đang giữ chức vụ Phó Bí thư thường trực thị ủy Bắc Cạn. Sau một thời gian, bị can Thân Đức Hùng- được giữ quyền Chủ tịch UBND thị xã Bắc cạn, giữa ông Khương và bị can Thân Đức Hùng không có sự bàn giao công việc.

Tuy nội dung chỉ đạo của UBND tỉnh Bắc cạn tại công văn số 749 ngày 03/9/2002 không được triển khai nhưng bắt đầu từ cuối năm 2003, lấy lý do nhu cầu của nhân dân bức xúc về nhà ở, dự án cải cách thủ tục hành chính phải được nghiệm thu vào cuối năm 2004, giải quyết các hồ sơ tồn trước khi phòng giao dịch một cửa được đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2005, phòng Địa chính thị xã Bắc cạn đã sử dụng bản đồ quy haochj mới do Công ty tư vấn xây dựng Thái Nguyên lập năm 2001- đây là bản thảo quy hoạch chưa được cấp có thẩm quyền phe duyệt để thực hiện và hướng dẫn cho Địa chính của phường Phùng Chí Kiên và phường Sông Cỗu cho các hộ dân có đất liền kề phía sau đất lưu không, lập hồ sơ kê khai đăng ký quyền sử dụng đất qua phường xét, đề nghị UBND thị xã Bắc cạn công nhận quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong đó có một phần diện tích đất lưu không với mục đích sử dụng để làm nàh ở. Theo thống kê từ cuối năm 2003 đến hết tháng 12/2004, Hoàng Châu Giang, Hoàng Văn Thắng và bà Hà Thị Kỷ là Lãnh đạo Phòng địa chính thị xã Bắc cạn đã ký nhiều tờ trình tham mưu cho Chủ tịch UBND thị xã Bắc cạn là bị can Thân Đức Hùng và ông Lê Văn Khương (Phó Chủ tịch UBND thị xã) ký ban hành 16 quyết định công nhận quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 264 trường hợp với tổng diện tích là 60.684,9m2, trong số này có 24.493,3m2 là đất lưu không.

Việc Phòng Địa chính tham mưu cho chủ tịch UBND thị xã Bắc                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                        Cạn ra các quyết định công nhận quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất lưu không cho các hộ ga đình và các nhân là trái với quy định củ pháp luật về đất đai và vi phạm quy hoạch chi tiết đường Nguyễn Văn Tố. Cụ thể: Đất lưu không là đất đã được Nhà nước thu hồi và đền bù giao cho UBNd thị xã bắc cạn sử dụng vào việc thi công tuyến đường Nguyễn Văn Tố (là đất chuyên dùng đang thuộc quyền quản lý của Nhà nước), nếu UBND thị xã Bắc cạn muốn sử dụng phần diện tích đất lưu không này vào mục đích cho nhân dân sử dụng làm nhà ở thì phải thảo mãn các điều kiện: thứ nhất: phải phù hợp với quy hoạch chi tiết đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (Điều 19 Luật Đất đai 1993; điều 31 Luật Đất đai Luật đất đai năm 2003); thứ hai: phải được sự đồng ý của UBND tỉnh Bắc cạn cho phép chuyển mục đích sử dụng từ đất chuyên dùng sang đất ở (Điều 23 Luật Đất đai năm 1993; điều 37 Luật đất đai năm 2003). Mặt khác, về thủ tục thực hiện đây là trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất nên theo quy định thì các hộ có nhu cầu phải làm đơn xin giao đất, được chính quyền địa phương xác nhận thì UBND thị xã Bắc cạn mới thực hiện giao đất tại thực địa, các hộ thực hiện nghĩa vụ tài chính xong Chủ tịch UBND thị xã Bắc Cạn  mới cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (điều 23 Luật Đất đai năm 1993; điều 122 Luật Đất đai năm 2003).

Việc làm sai quy định của pháp luật và không tuân thủ ý kiến chỉ đạo của cấp trên như đã nêu ở phần trên của bị can Hoàng Châu Giang, Thân Đức Hùng và các ông Lê Văn Khương, Hoàng Văn Thắng, bà Hà Thị Kỷ đã gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, được minh chứng bằng các tài liệu sau:

- Tại khoản 2 phần V Thông tư số 115 ngày 11/12/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 38 ngày 23/8/2000 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất quy định: “… trường hợp khu đất (lô đất) đã được quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng làm cho giá đất thay đổi thì UBND cấp tỉnh quy định lại giá đất cho phù hợp…”.

- Tại điều 2 của Quyết định số 1979 ngày 18/10/2001 của UBND tỉnh Bắc Cạn về việc ban hành quy định về giá đất trên địa bàn tỉnh Bắc Cạn cũng quy định: “….những khu đất (lô đất) được quy hoạch , đầu tư cơ sở hạ tầng làm cho giá đất thay đổi thì UBND cấp tỉnh quy định lại giá đất cho phù hợp…”

- Tại điều 2 của Quyết định số 1979 ngày 18/10/2001 của UBND tỉnh Bắc cạn về việc ban hành quy định về giá đất trên địa bàn tỉnh Bắc Cạn cũng quy định: “…những khu đất khi được Nhà nước chuyển mục đích sử dụng và sau khi được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc có biến động giá từ 15% trở lên so với quyết định này sẽ được điều chỉnh và xây dựng mới”.

- Tại Công văn số 304/SXD-VB ngày 27/6/2008 của Sở Xây dựng Bắc Cạn khẳng định: “…bản đồ quy hoạch chi tiết chia lô tổ 14, 15 phường Sông Cầu, thị xã Bắc Cạn do Công ty tư vấn xây dựng Thái Nguyên-Sở Xây dựng Thái Nguyên lập tháng 10/2001 nhưng chưa được cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt vì vậy không phải là văn bản pháp lý để thực hiện.”

Chính vì vậy, trong nội dung Công văn số 749 ngày 03/9/2002 của UBND tỉnh Bắc Cạn chỉ cho phép giao đất ở 1 số vị trí phù hợp với quy hoạch chi tiết đối với khu dân cư và yêu cầu phải xây dựng đơn giá mới trước khi giao đất lưu không dọc tuyến đườngNguyễn Văn Tố là hoàn toàn có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

Để có cơ sở pháp lý khi kết luận về những hành vi sai phạm và thiệt hại do hành vi sai phạm của bị can Hoàng Châu Giang và bị can Thân Đức Hùng gây ra, Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu các giám định viên tư pháp tỉnh Bắc Cạn công tác tại Sở Tài chính-Vật giá; Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện công tác giám định.

- Tại kết luận giám định ngày 03/8/2007 của các giám định viên tư pháp tỉnh Bắc Cạn công tác tại Sở Tài chính-Vật giá, xác định:

“…giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường trên trục đường Nguyễn Văn Tố tại thời điểm tháng 11 và tháng 12 năm 2004 như sau:

+ Từ quốc lộ 3 đến hết nhà ông Nguyễn Đức Ngọc là 1.300.000đ/1m2;

+ Từ nhà ông Ngọc đến đất Chí Kiên là: 1.000.000đ/1m2;

+ Đoạn từ cách lộ giới đường 257 là 20” (Bắc Cạn-Chợ Đồn) đến cầu Khai Kẹc là 1.300.000đ/m2;

+ Đoạn từ cầu Khai Kẹc đến giáp đất phường Phùng Chí Kiên là 1.000.000 đ/m2”.

- Tại Kết luận giám định số 149 ngày 13/3/2008 của các giám định viên tư pháp công tác Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Cạn, xác định:

“…các hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nộp tiền sử dụng một phần đất do Nhà nước đang quản lý. Theo quy định của điều 23 Luật Đất đai năm 1993; điều 122 Luật Đất đai năm 2003 thì các trường hợp này phải có đơn xin giao đất và được UBND cấp có thẩm quyền quyết định giao đất cụ thể đối với từng trường hợp và thực hiện bàn giao đất tại thực địa xong mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặt khác khu vực này UBND tỉnh chưa có quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất chuyên dùng thành đất ở; các hộ chưa sử dụng đất (đất lưu không) nên các trường hợp này được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và truy thu tiền sử dụng đất là trái với các quy định về yhur tục hành chính hiện hành”.

Qua đối chiếu với các bộ hồ sơ kê khai đăng ký quyền sử dụng đất của các hộ đã thu giữ, từ cuối năm 2003 đến hết tháng 12/2004 đã có 24.493,3m2 đất lưu không bị công nhận, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái quy định gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước. Tuy nhiên trên cơ sở kết quả giám định thì chỉ có khoảng thời gian tháng 11 và 12/2004 là xác định được giá đất. Nếu so sánh giữa giá đất đã thu tiền (áp dụng theo đơn giá giám định thấp nhất là 1.000.000đ/1m2), thì số tiền chênh lệch của số diện tích 10.142m2 đất lưu không được công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái với quy định trong tháng 11, 12/2004 đã là 9.127.800.000đồng (Chín tỷ một trăm hai mươi bảy triệu tám trăm nghìn đồng chẵn). Trong đó trách nhiệm của từng cá nhân được thể hiện như sau:

   - Bị can Hoàng Châu Giang ký 05 tờ trình tham mưu cho Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn ký các quyết định số 543/02.8.2004; số 713/25.0.2004; số 718/01.11.2004 và số 961/21.12.2004 gây thiệt hại cho nhà nước: 11.774,8m2 đất lưu không, trong đó có 6.354m2 đất lưu không bị cấp trái phép trong tháng 11, 12/2004 - số tiền chênh lệch giữa đơn giá theo quyết định số 1979 với đơn giá giám định là 5.718.600.000đồng;

   - Ông Hoàng Văn Thắng ký 03 tờ trình cho các quyết định số 74/06.02.2004; số 411/17.4.2004 và số 300/14.5.2004 gây thiệt hại cho Nhà nước: 4.808,1 m2;

   - Bà Hà Thị Ký ký 04 tờ trình cho các quyết định số 2254/22.8.2003; số 3630/06.11.2003; số 769/22.12.2004 và số 1004/30.12.2004 gây thiệt hại cho Nhà nước: 4.367.7m2, trong đó có 3.128m2 đất lưu không bị cấp trái phép trong tháng 11, 12/2004 - số tiền chênh lệch giữa đơn giá theo quyết định số 1979 với đơn giá giám định là 2.815.200.000đồng.

   (Có 04 Quyết định hiện nay không xác định được người ký tờ trình gồm: số 617/13.9.2004; số 3683/18.11.2004; số 243/09.4.2004 và số 868/15.11.2004)

   - Bị can Thân Đức Hùng ký 14 quyết định gồm: số 74/06.02.2004; số 243/09.4.2004; số 411/17.4.2004; số 300/14.5.2004; số 543/02.8.2004; số 617/13.9.2004; số 713/25.10.2004; số 718/01.11.2004; số 868/15.11.2004; số 3683/18.11.2004; số 966/22.11.2004; số 961/21.12.2004; số 769/22.12.2004 và số 1004/30.12.2004 gây thiệt hại cho Nhà nước: 23.235,5m2 đất lưu không, trong đó có 10.142m2 đất lưu không bị cấp trái phép trong tháng 11, 12/2004 – số tiền chênh lệch giữa đơn giá theo quyết định số 1979 với đơn giá giám định là 9.127.800.000 đồng.

   - Ông Lê Văn Khương ký 02 quyết định gồm số 2254/22.8.2003 và số 3630/06.11.2003 gây thiệt hại cho Nhà nước: 1.214,7m2 đất lưu không.

   Với danh sách thống kê đã có tổng số 264 cá nhân được công nhận quyền sử dụng đất lưu không trái quy định, nhưng trên thực tế xác minh số diện tích đất này lại tập trung ở một số người như ông Lương Đình Kiểm – Giám đốc xí nghiệp xây dựng Thành Hưng (địa chỉ tổ 9, phường Phùng Chí Kiên, thị xã Bắc Kạn), ông Lê Mạnh Hùng – Giám đốc công ty TNHH Thái Hưng (địa chỉ phường Phùng Chí Kiên, thị xã Bắc Kạn); có nhiều trường hợp không có hộ khẩu thường trú hoặc cư trú thực tế trên địa bàn hai phường Phùng Chí Kiên và phường Sông Cầu, thậm chí nhiều người có hộ khẩu thường trú ở ngoại tỉnh như Thái Bình, tỉnh Thái Nguyên; cá biệt có trường hợp người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dưới 10 tuổi và một số cán bộ trong tỉnh có diện tích đất lưu không được công nhận là đất ở vượt quá hạn mức quy định. Trong số 264 trường hợp được công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lưu không, có tên các trường hợp là người thân của những người có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể:

   - Bị can Hoàng Châu Giang có vợ là Lường Thị Thanh Sơn đứng tên xin đăng ký 01 thừa với diện tích 207,5m2, trong đó có 150m2 đất lưu không, đã nộp tiền sử dụng đất là 150. 000.000đồng, ngay sau đó đã bán lại cho người khác được 100.000.000đồng; Ông Lường Quốc Hải – là em vợ đứng tên xin đăng ký 01 thửa với diện tích 75m2 đất lưu không, đã nộp tiền sử dụng đất là 7.500.000đồng, hiện nay chưa bán cho ai.

   - Bị can Thân Đức Hùng: được ông Lý Văn Kim ký quyết định tạm giao 140m2 đất lưu không tại tổ 15, phường Sông Cầu, thị xã Bắc Kạn. Ngày 04/12/2002, bị can Thân Đức Hùng kê khai và nộp tiền sử dụng đất là 9.800.000đồng (đã được miễn giảm 30%). Đến năm 2004, bị can làm đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất, thì thửa đất lại có diện tích 245,9m2, trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện có 160m2 đất thổ cư và 85,9m2 đất vườn tạp, như vậy so với quyết định tạm giao thừa 105,9m2 (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Thân Đức Hùng do chính bị can ký).

   - Ông Hoàng Văn Thắng có vợ là Lã Thị Thanh Lương đứng tên xin đăng ký 01 thửa có diện tích 125,3m2 đất lưu không, nhưng chỉ kê khai diện tích 100m2 và đã nộp số tiền 7.000.000đồng, nay đang sử dụng làm nhà ở; Ông Hoàng Thanh Trần - bố đẻ đứng tên xin đăng ký 01 thửa với diện tích 100,1m2 đất lưu không, đã nộp số tiền là 11.000.000đồng, sau đó đã bán cho người khác được số tiền là 90.000.000đồng; Ông Hoàng Vũ Hùng – em ruột đứng tên xin đăng ký 01 thửa với diện tích 100m2 đất lưu không, đã nộp số tiền là 10.000.000đồng, nay đã bán cho người khác được số tiền là 90.000.000đồng; Ông Hoàng Văn Thỉnh – em họ đứng tên xin đăng ký 01 thửa với diện tích 75m2 đất lưu không, đã nộp số tiền là 7.500.000đồng, hiện nay chưa bán cho ai.

   Còn lại ông Lê Văn Khương và bà Hà Thị Kỷ không đứng tên mua thửa đất nào và người thân cũng không mua một thửa nào.

   Như vậy, vì động cơ vụ lợi và động cơ cá nhân khác mà bị can Hoàng Châu Giang đã vụ lợi chức vụ, quyền hạn của mình cố ý làm trái các quy định của Nhà nước để cho 6.354m2 đất lưu không đã bị cấp trái quy định. Còn bị can Thân Đức Hùng đã có hành vi thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ của Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn gây hậu quả rất nghiêm trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước ở lĩnh vực đất đai, đã để cho 23.328,8m2 đất lưu không bị cấp trái quy định.

   Đối với hành vi của ông Hoàng Văn Thắng, bà Hà Thị Ký và ông Lê Văn Khương, có liên quan đến quá trình làm thủ tục công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lưu không trái quy định, cho các trường hợp như đã nêu ở trên nhưng hiện chưa được điều tra làm rõ, nay thời hạn điều tra đã hết nên Cơ quan điều tra đã tách phần hành vi của những người này ra để tiếp tục xem xét xử lý sau.

   2. Một số hành vi khác có liên quan:

   Cùng với việc công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái phép cho các trường hợp (đã nêu ở phần trên), bị can Thân Đức Hùng và Hoàng Châu Giang còn có hành vi ký các thông báo nghĩa vụ tài chính, trong đó xác định giảm trừ giá trị tiền sử dụng đất không có căn cứ, điều này được thể hiện: khi xác định giá trị số tiền sử dụng đất phải nộp cho các trường hợp, căn cứ vào các lô đất có độ chênh cao hoặc chênh thấp khác nhau để đánh giá giá trị của lô đất, xác định số tiền thực tế phải nộp. Nhưng qua kiểm tra trong hồ sơ của các hộ không thấy có bất cứ một loại giấy tờ nào chứng minh cho việc  xác định độ chênh cao hay chênh thấp của lô đất và các hộ cũng không có đơn xin giảm. Tuy nhiên, bị can Thân Đức Hùng và Hoàng Châu Giang vẫn ký các thông báo nộp tiền, xác định giá trị lô đất có độ chênh cao hoặc chênh thấp khác nhau theo ý chí chủ quan của mình. Nếu so với giá trị lô đất bình thường thì số tiền chênh lệch là 623.037.000đồng. Nhưng trên thực tế thấy, hai bên đường Nguyễn Văn Tố khi xây dựng phải thi công qua nhiều đồi núi, do vậy hai bên đường có tả luy đào và tả luy đắp. Để xác định, Cơ quan điều tra đã trưng cầu các giám định viên tư pháp tỉnh Bắc Kạn công tác tại Sở xây dựng thực hiện công tác giám định và tại kết luận giám định số 01 ngày 23/11/2007, xác định: số tiền giảm trừ không đúng thực tế là 58.261.500đồng (trong đó: bị can Hoàng Châu Giang ký các thông báo tài chính giảm với số tiền là 35.722.500đ và bị can Thân Đức Hùng ký các thông báo giảm với số tiền là 21.798.000đ).

   Bên cạnh đó, các bị can còn có hành vi cho nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp trái quy định, cụ thể: Vào thời gian năm 2003 và năm 2004, ông Lương Đình Kiểm – Giám đốc Xí nghiệp xây dựng Thành Hưng có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp 01 lúa của một số hộ dân ở tổ 15, 16 phường Sông Cầu, thị xã Bắc Kạn, với tổng diện tích là 4.098,7m2, sau đó ông Kiểm cho bà Nguyễn Thị Chín (là cô họ) có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Thái Bình đứng tên trong các bộ hồ sơ nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bị can Hoàng Châu Giang - đại diện cho Phòng Địa chính thị xã Bắc Kạn xuống kết hợp cùng với cán bộ địa chính phường đi kiểm tra thực địa. Mặc dù biết rõ các hộ cho chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa đăng ký kê khai quyền sử dụng đất để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bà Nguyễn Thị Chín (thực chất đứng tên thay ông Lương Đình Kiểm) không phải là hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng bị can Hoàng châu Giang vẫn đồng ý ký tờ trình để cho Thân Đức Hùng cho phép thực hiện việc chuyển nhượng. Việc cho bà Nguyễn Thị Chín nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp 01 lúa là trái với quy định tại điều 9 của Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ. Theo bị can Hoàng Châu Giang khai thì bản thân biết việc làm này là trái quy định nhưng thấy đất đó đã bị vùi lấp do thi công đường không thể canh tác lúa được nên bị  can đã cho chuyển nhượng, ngoài ra không có động cơ mục đích nào khác; còn bị can Thân Đức Hùng vì tin tưởng vào cán bộ chuyên môn nên đã ký quyết định đồng ý cho chuyển nhượng.

    Như vậy, bị can Hoàng Châu Giang và Thân Đức Hùng đã có hành vi vi phạm trong việc ký các thông báo nghĩa vụ tài chính, cho giảm trừ tiền sử dụng đất không có căn cứ và cho chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp (01 lúa) trái quy định, nhưng xét thấy hành vi này chưa gây hậu quả nghiêm trọng và cơ quan điều tra cũng không thu thập được tài liệu chứng minh động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác của các bị can nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng cần phải được xử lý bằng pháp luật hành chính.

   Tại Cơ quan điều tra, các bị can đã thừa nhận bản thân trong quá trình thực hiện công vụ của miùnh đã không thực hiện theo đúng những quy định của pháp luật, nhưng không thừa nhận là hành vi của mình đã phạm tội (tập hồ sơ số 1 và tập số 7), tuy nhiên với các tài liệu điều tra đã thu thập được có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị can. (BL số 1049 đến 3512)

   Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở:

KẾT LUẬN

Trong khoảng thời gian từ cuối năm 2003 đến hết tháng 12/2004, bị can Hoàng Châu Giang vì động cơ vụ lợi, động cơ cá nhân khác đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm trái công vụ tham mưu cho cấp trên ký các quyết định công nhận quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dọc hai bên tuyến đường Nguyễn Văn Tố nằm trên địa giới của các phường Sông cầu và phường Phùng Chí Kiên, thị xã Bắc Kạn, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước; bị can Thân Đức Hùng đã có hành vi thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm quản lý Nhà nước ở lĩnh vực đất đai gây hậu quả rất nghiêm trọng, cụ thể:

   - Bị can Hoàng Châu Giang đã ký 05 tờ trình tham mưu cho Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn ký các Quyết định số 543/02.8.2004; số 713/25.10.2004; số 961/21.12.2004; số 966/22.11.2004 và số 718/01.11.2004 với tổng diện tích: 11.774,8m2 đất lưu không đã bị sai quy định, trong đó số diện tích đất bị cấp trong tháng 11 và 12/2004 là 6.354m2, gây thiệt hại cho Nhà nước với số tiền ít nhấtlà 5.718.600.000đồng (Năm tỷ bảy trăm mười tám triệu sáu trăm ngàn đồng);

   - Bị can Thân Đức Hùng đã ký 14 quyết định gồm: số 74/06.02.2004; số 243/09.4.2004; số 411/17.4.2004; số 300/14.5.2004; số 543/02.8.2004; số 61617/13.9.2004; số 713/25.10.2004; số 718/01.11.2004; số 868/15.11.2004; số 3683/18.11.2004; số 966/22.11.2004; số 961/21.12.2004; số 769/22.12.2004 và số 1004/30.12.2004 với tổng diện tích: 23.328,8m2 đất lưu không đã bị cấp sai quy định, trong đó có 10.142m2 đất lưu không bị cấp trong tháng 11, 12/2004 gây thiệt hại cho Nhà nước với số tiền ít nhất là 9.127.800.000đồng (Chín tỷ một trăm hai mươi bảy triệu tám trăm nghìn đồng).

   Hành vi của bị can Hoàng Châu Giang và Thân Đức Hùng còn gây dư luận xấu trong xã hội, ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng bộ và chính quyền thị xã Bắc Kạn nói riêng và tỉnh Bắc Kạn nói chung.

   Như vậy đã có đủ căn cứ xác định bị can có lý lịch sau đây đã phạm tội:

1-     Họ và tên: Hoàng Châu Giang – tên gọi khác: Không

- Sinh ngày: 16/04/1964 tại thị xã Bắc Kạn.

- Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: tổ 6, phường Nguyễn Thị Minh Khai, thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

- Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không;

- Trình độ văn hoá: 10/10; Nghề nghiệp: Nguyên phó phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Bắc Kạn.

- Đảng, đoàn thể: Đảng viên đang bị đình chỉ sinh hoạt đảng.

Con ông: Hoàng Ngọc Tháp – sinh năm 1926 và bà Nguyễn Thị Tuyết – sinh năm 1934. Đều là cán bộ nghỉ hưu, hiện cư trú tại phường Nguyễn Thị Minh Khai, thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

- Gia đình có 06 anh em, bị can là con thứ 3.

- Vợ: Lường Thị Thanh Sơn – sinh năm 1973, hiện công tác tại Sở Y tế tỉnh Bắc Kạn.

- Con: có 02 con chung lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 2004.

- Tiền sự: không.

- Tiền án: không

Quá trình hoạt động xã hội của bị can:

Bị can Hoàng Châu Giang sinh ra và lớn lên tại thị xã Bắc Kạn, được gia đình nuôi ăn học hết lớp 10/10. Năm 1984 đi học tại trường trung cấp mỏ địa chất Hà Nội, cuối năm 1987 ra trường. Tháng 01/1998 đến nhận công tác tại Công ty vàng bạc đá quý Việt Nam, công tác tại xí nghiệp 386 (Bình Gia, Lạng Sơn) đến năm 1992 chuyển sang Công ty 392 (Ngân Sơn, Cao Bằng). Tháng 7/1998 chuyển công tác tại phòng Địa chính thuộc UBND thị xã Bắc Kạn. Từ năm 1999 đến năm 2003 theo học lớp đại học hệ tại chức tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. Năm 2005 học lớp cao cấp lý luận chính trị tại chức mở tại tỉnh Bắc Kạn.

            Khoảng thời gian năm 2004 đã có hành vi Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, bị khởi tố bị can ngày 04/9/2007 và bị bắt tạm giam từ ngày 05/9/2007 cho đến ngày 11/4/2008 được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ Tạm giam sang Cho bảo lĩnh, hiện bị can đang tại ngoại tại địa phương.

               2- Họ và tên: Thân Đức Hùng – tên gọi khác: Không.

               - Sinh ngày: 20/12/1960 tại Đại từ, tỉnh Thái Nguyên.

               - Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 15, phường Sông Cầu, thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

               - Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt nam; Tôn giáo: Không;

               - Trình độ văn hoá: 10/10; Nghề nghiệp: Cán bộ; Chức vụ: Nguyên Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn.

               - Đảng, đoàn thể: Đảng vien đang bị đình chỉ sinh hoạt đảng.

               - Con ông: Thân Trọng Biểu – Sinh năm 1934 và bà Dương Thị Điền – sinh năm 1938. Đều là cán bộ hưu trí tại phường Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

               - Gia đình có 05 chị em, bị can là con thứ ba.

               -Vợ: Trần Thị Hương – sinh năm 1968. Nghề nghiệp: Cán bộ kho bạc tỉnh Bắc Kạn.

               - Con: có 02 con chung, lớn sinh năm 1990 nhỏ sinh năm 1992.

               - Tiền sự: Không.

               - Tiền án: Không

               Quá trình hoạt động xã hội của bị can:

               Bị can Thân Đức Hùng sinh ra và lớn lên tại xã An Khánh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Năm 1979 đi học tại trường Đại học lâm nghiệp tỉnh Quảng Ninh; từ tháng 9/1984 đến tháng 9/1988 công tác tại lâm trường Đồng Hỷ, tỉnh Bắc Thái; từ tháng 10/1988 đến tháng 3/1996 công tác tại phòng Tổ chức Sở lâm nghiệp Bắc Thái; từ tháng 4/1996 đến tháng 12/1996 công tác tại phòng hành chính tổng hợp Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Thái; từ tháng 01/1997 đến tháng 12/1997 giữ chức vụ Trưởng phòng tổ chức Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Kạn; từ tháng 7/2000 đến tháng 7/2002 chuyển sang công tác tại Ban tổ chức chính quyền tỉnh Bắc Kạn (nay là Sở Nội vụ), đã qua các chức vụ phó ban, trưởng ban; từ tháng 7/2005 đến tháng 8/2005 giữ chức vụ phó Ban tổ chức Tỉnh uỷ Bắc Kạn; từ tháng 9/2005 đến tháng 9/2007 giữ chức vụ Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Kạn; đến tháng 10/2007 bị tạm đình chỉ chức vụ cho đến nay.

               Trong khoảng thời gian từ cuối năm 2003 và năm 2004 đã có nhiều hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả rất nghiêm trọng, bị khởi tố bị can ngày 04/9/2007 hiện bị can đang được tại ngoại tại nơi cư trú.

               Hành vi nêu trên của bị can Hoàng Châu Giang đã phạm vào tội: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ quy định tại điểm c khoản 2 điều 281/BLHS; hành vi của bị can Thân Đức Hùng đã phạm vào tội: Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 2 điều 285/BLHS. Cụ thể các điều luật có nội dung như sau:

               Điều 281 có nội dung:

               “1. Người nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc các trường hợp quy định tại các điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

               2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm.”

               Đối với 264 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp sai quy định, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bắc Kạn đã có công văn số 612/CQĐT ngày 16/9/2008 yêu cầu UBND thị xã Bắc Kạn thu hồi số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này. Ngày 09/10/2008, UBND thị xã Bắc Kạn đã ban hành Quyết định số 1312/QĐ-UBND, về việc phê duyệt thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có một phần đất lưu không thuộc tuyến đường Nguyễn Văn Tố và Quốc lộ 3, thuộc phường Sông Cầu, phường Phùng Chí Kiên thị xã Bắc Kạn gồm 264 hộ.

               Từ cơ sở những chứng cứ nêu trên:

   QUYẾT ĐỊNH

               Truy tố ra trước Toà án nhân dân thị xã Bắc Kạn để xét xử đối với các bị can Hoàng Châu Giang và Thân Đức Hùng (có lý lịch nêu trên) về tội như sau:

               - Bị can Hoàng Châu Giang truy tố về tội: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo điểm c khoản 2 điều 281 Bộ luật hình sự.

               - Bị can Thân Đức Hùng truy tố về tội: Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 2 điều 285 Bộ luật hình sự.

               Nội dung các điều luật đã được viện dẫn ở trên.

               Kèm theo Cáo trạng là toàn bộ hồ sơ vụ án gồm:….tập, các tập được đánh số từ 01 đến….., trong đó có cả những tài liệu đã thu giữ là vật chứng của vụ án.

- Danh sách những người cần triệu tập đến Toà.

                                                                                                                

                                                                                                      K/T. VIỆN TRƯỞNG

                                                                                                      PHÓ VIỆN TRƯỞNG

                                                                                                                (Đã ký)

Nơi nhận:

-Viện KSND tỉnh (B/c);

-Lãnh đạo Viện (B/c);

-CQĐT (Đ/biết);                                                                         Nguyễn Đức Giang

- Hồ sơ vụ án (xét xử);

- Bị can (Tống đạt);

- Luật sư của các BC;

- Lưu hồ sơ KSĐT.

            (16 bản)

VÀ QUAN ĐIỂM BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

                 Độc lập-Tự do-Hạnh phúc

                -------------*-----------------

      QUAN ĐIỂM LUẬT SƯ BÀO CHŨA

         Bị cáo Thân Đức Hùng trong vụ án

“Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ xẩy ra trong lĩnh vực quản lý đất đai-cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại địa bàn phường Sông Cầu và

phường Phùng Chí Kiên thị xã Bắc Kạn”.

 

Kính thưa HĐXX Tòa án Nhân dân thị xã Bắc Kạn

 

Chúng tôi gồm các luật sư:

1.     Phan Thị Hương Thủy chức vụ Trưởng Văn phòng và

2.     Phạm Thị Ngọc

thuộc  Văn phòng luật sư Hoàng Long (Đoàn luật sư TP. Hà Nội),

3.     Lương Quang Tuấn chức vụ Trưởng Văn phòng luật sư An Thái

là các luật sư bào chữa cho bị can Thân Đức Hùng- nguyên Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn trong vụ án: “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ xẩy ra trong lĩnh vực quản lý đất đai-cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại địa bàn phường Sông Cầu và phường Phùng Chí Kiên thị xã Bắc Kạn”.

-         Căn cứ các quy định của Luật đất đai và các văn bản dưới luật hướng dẫn Luật đất đai.

-         Căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án

-         Căn cứ vào kết quả thẩm vấn công khai tại phiên tòa từ ngày 12 đến ngày 16/10/2009

Tôi thay mặt các luật sư đồng nghiệp xin trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo Thân Đức Hùng cụ thể như sau:

Trước hết tôi phản đối kết luận của kiểm sát viên VKSND thị xã Bắc Kạn duy trì quyền công tố tại phiên tòa vì đã vi phạm nghiêm trọng khoản 1 điều 217 BLTTHS quy định: “Luận tội của kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa, ý kiến của bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa”.

Phiên tòa này diễn ra từ ngày 12 đến sáng ngày hôm nay 16/10 là 5  ngày, hàng trăm tài liệu đã được thẩm vấn đưa ra xem xét, nhiều ý kiến của luật sư chúng tôi đã nêu để bác bỏ các chứng cứ buộc tội của cơ quan điều tra và nêu các chứng cứ gỡ tội cho bị cáo cùng những quy định pháp luật về đất đai…nhưng tất cả đã không được kiểm sát viên sử dụng mà vẫn vận dụng các căn cứ buộc tội như Cáo trạng số 55..Như vậy là phiên tòa này đã diễn ra vô ý nghĩa gây thất vọng cho những người tham gia tố tụng và niềm tin vào sự công bằng trong việc xử lý hình sự vụ án này  và trái với tinh thần cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước thể hiện tại Nghị quyết  số 08 ngày 2/1/2002, số 48 ngày 24/5/2005 và 49 ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị. Việc làm trái tinh thần của Bộ chính trị không phải chỉ thể hiện tại phiên tòa này mà đã xuyên suốt quá trình điều tra, truy tố…luật sự chúng tôi đã gửi hàng chục bản kiến nghị luật sư trong đó phân tích các chứng cứ và phản bác các căn cứ buộc tội của cơ quan điều tra tỉnh Bắc Kạn, của VKS ND tỉnh Bắc Kạn và VKSND thị xã Bắc Kạn đề ngị đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can Thân Đức Hùng vì hành vi của bị cáo không có dấu hiệu hình sự, không hề có thiệt hại quyền lợi của nhà nước của cơ quan tổ chức công dân hay bị suy giảm uy tín của Đảng…nhưng chúng tôi rất thất vọng vì các cơ quan tiến hành tố tụng tại Bắc Kạn đã im lặng không dám tranh luận với luật sư….thậm chí đã có nhiều bài báo của các tờ báo tại Hà Nội cũng đã đưa tin về vụ án này và khẳng định việc xử lý bị cáo Thân Đức Hùng là hành vi hình sự hóa quan hệ hành chính, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng cũng vẫn im lặng không có ý kiến gì đói với công luận. Việc im lặng đó thể hiện cơ quan tiến hành tố tụng đã thấy khởi tố, truy tố bị cáo là không đúng quy định pháp luật…nhưng rất tiếc là vẫn cố tình kéo dài vụ án để cố buộc tội cho bị cáo thể hiện là bổ sung thêm 1 tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn vì động cơ vụ lợi về việc đăng ký xin cấp giấy chứng nhận QSD đất cho thửa đất của bị can…

Căn cứ khoản 3 điều 23 BLTTHS quy định về nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự : ‘VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát viên tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự…đảm bảo việc truy tố…đúng pháp luật, không làm oan người vô tội” thì việc vẫn luận tội không căn cứ vào kết quả thẩm vấn tại phiên tòa của kiểm sát viên đã vi phạm quy định này là đã làm oan người vô tội.

Sau đây tôi xin trình bày quan điểm bác bỏ từng nội dung buộc tội của Viện kiểm sát thể hiện tại Cáo trạng số 55 ngày 3/8/2009 của VKSND TX BK.

Nhận xét chung:

1. Theo Cáo trạng số 55/KSĐ thực hiện theo quyết định chuyển vụ án hình sự số 34 ngày 24/7/2009 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn để truy tố theo thẩm quyền đã quyết định truy tố bị can Thân Đức Hùng về 2 tội:

- Tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 2 điều 285 Bộ luật hình sự  thể hiện ở hành vi ký phê duyệt 14 quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở dọc đường Nguyễn Văn Tố tại 2 địa bàn phường Sông Cầu và Phùng Chí Kiên 2 tháng cuối năm 2004 làm thiệt hại 23. 238,5m2 đất chuyên dụng của nhà nước.

Để buộc tội bị cáo về tội này kiểm sát viên đã dựa vào 4 lập luận buộc tội thể hiện ở các trang 6, 4, 5, 8 Cáo trạng số 55.

- Tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo khoản 1 điều 281 Bộ luật hình sự  thể hiện ở hành vi kê khai đăng ký để được cấp giấy chứng nhận đối với thửa đất số tờ bản đồ số tại tổ 15 phường Sông Cầu-thị xã Bắc Kạn.

Để buộc tội bị cáo về tội này Cáo trạng và kiểm sát viên đã dựa vào 4 lập luận buộc tội thể hiện ở các trang 8,9 Cáo trạng số 55 .

Chúng tôi khẳng định qua 5 ngày xét xử, thẩm vấn hàng chục lần, xem xét hàng trăm bút lục các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án không đủ cơ sở để buộc bị cáo Thân Đức Hùng có hành vi phạm tội theo các điều luật nêu trên và vô tội. Cụ thể là Cáo trạng không thực hiện được điều 10 BLTTHS quy định về xác định sự thật của vụ án đó la: không chứng minh được tội phạm như điều luật đã truy tố.

2. Khi ra Cáo trạng số 55 cơ quan kiểm sát tỉnh Bắc Kạn còn bỏ qua những chứng cứ có lợi cho bị can do Cơ quan điều tra thu thập thể hiện tại Kết luận điều tra bổ sung số 08 ngày 2/7/2009 liên quan đến kết quả thực hiện Dự án cải cách hành chính theo Quyết định 403 ngày của Tổng cục địa chính nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường và UBND tỉnh Bắc Kạn có Quyết định 298 ngày về thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực hiện dự án. Tại phiên tòa đã thẩm vấn và xem xét rất kỹ các tài liệu của Hồ sơ nghiêm thu dự án do luật sư thu thập từ Bộ TNMT nộp cho tòa án cả hai giai đoạn xét xử và đã làm sáng tỏ được sự thật của vụ án là không hề có việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất chuyên dụng của nhà nước trái quy định pháp luật và làm thiệt hại tài sản cho nhà nước.

3. Vi phạm nguyên tắc giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, truy tố người đúng pháp luật quy định tại khoản 2, 3 điều 23 BLTTHS vì cũng cùng hành vi ký phê duyệt các QĐ cấp giấy chứng nhận quyền sủ dụng đất mà người này được đình chỉ xử lý hình sự, người khác cùng tính chất, cương vị thì vẫn bị xử lý hình sự, hay cùng 1 hành vi ký tờ trình đề nghị phê duyệt cấp giáy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bị cáo này thì bị xử lý theo điều lợi dụng chức vụ quyền hạn bị cáo khác lại bị xử lý theo điều thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Sau đây là những căn cứ phản bác cụ thể từng nội dung buộc tội thể hiện trong bản Cáo trạng:

I: Đối với việc kết luận bị cáo Thân Đức Hùng phạm tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo điều 281 BLHS. Cáo trạng số 55 dựa trên 4 lập luận và có sự dẫn dắt như sau:

Nội dung thứ nhất: Phản bác việc Cáo trạng sử dụng Công văn số 749 ngày 3/9/2002 của UBND tỉnh Bắc Kạn như là 1căn cứ có tính chất là chứng cứ xuất phát điểm để buộc tội bị can:

Tại trang 6 Cáo trạng dựa trên công văn 749 ngày 3/9/2002 của UBND tỉnh BK để làm xuất phát điểm cho hành trình buộc tội như sau: “  Như vậy, nội dung công văn số 749 ngày 03/9/2002 của UBND tỉnh Bắc Kạn chỉ cho phép giao đất ở một số vị trí phù hợp với quy hoạch chi tiết đối với khu dân cư và yêu cầu phải xây dựng đơn giá mới trước khi UBND tỉnh Bắc Kạn cho phép chuyển mục đích sử dụng từ đất chuyên dùng dọc tuyến đường Nguyễn Văn Tố sang làm đất ở để giao cho người dân là hoàn toàn có cơ sở và đúng quy định của pháp luật. Việc phòng Địa chính tham mưu cho Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn ban hành các quyết định công nhận quyền quyền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất chuyên dùng cho các hộ gia đình và cá nhân là trái với các quy định của pháp luật về đất đai và vi phạm quy hoạch chi tiết đường Nguyễn Văn Tố”.

Phân tích đoạn văn trên thì thấy Cáo trạng cho rằng theo CV 749 thì để cho phép giao đất chuyên dụng ở dọc tuyến đường Nguyễn Văn Tố cho dân làm nhà phải có 4 thủ tục: XĐ 1 số vị trí phù hợp quy hoạch chi tiết khu dân cư, phải xây dựng đơn giá mới, rồi UBND tỉnh cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất chuyên dùng sang đất ở, rồi giao cho người dân…sau đó mới cấp giấy CNQSD đất. Còn nếu chưa làm đủ thủ tục đó mà đã cấp giáy chứng nhận thì là vi phạm pháp luật vì đã cấp đất chuyên dụng của nhà nước trái quy định pháp luật. Cần lưu ý 1 điều là về tính chất CV 749 chỉ là văn bản hành chính không phải là văn bản quy phạm pháp luật nên không thể có giá trị cao hơn các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai do nhà nước ban hành vào thời điểm đó như: Luật đất năm 1993, sủa đổi bổ sùn 1998, 2001. Các văn bản dưới luật như: NĐ17 ngày 29/3/1999, Nghị định 04 ngày 11/2/2000, NĐ 66 ngày 28/9/2001 sửa đổi bổ sung NĐ 04, Thông tư 1990, thậm chỉ cả QĐ 1979 của UBND tỉnh Băc Kạn .

Việc kết luận như vậy-vào thời điểm năm 2009 đối với 1 chủ trương của tỉnh vào thời điểm 2002 –gần 7 năm với biết bao biến động về sử dụng đất, về thay đổi pháp luật trong lĩnh vực đất đai của Nhà nước (Luật đất đai năm 2003 được ban hành) nhất là có sự kiện tỉnh Bắc Kạn đã được Trung ương cấp kinh phí để thực hiện Dự án liên quan đến đo đạc chỉnh lý bản đồ, địa chính, kê khai , đăng ký quyền sử dụng đất, cấp giáy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn với cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai…(thời gian từ 2002 đến 2005) ..quả là quá tàn nhẫn và hoàn toàn thoát ly với hiện thực cuộc sống…

Qua thời gian xét xử cả hai giai đoạn có nhiều người dân được triệu tập tham dự phiên tòa với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan họ đều thể hiện quan điểm việc cấp giấy chứng nhận trong đó có phần đất chuyên dụng của nhà nước mà buộc họ trả tiền sử dụng đất cao gấp nhiều lần so với giá đến bù khi thu hồi đất của họ là bất công nên nhiều người không thẻ thực hiện nghĩa vụ tài chính…họ đề nghị tòa án xem xét về giá đất mà họ phải mua lại đất của nhà nước trong khi họ mới là người bỏ chi phí san ỉu để làm tăng giá trị đất chứ không phải nhà nước.

Tại giai đoạn này đã không có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến thể hiện họ không quan tâm đến xét xử thể hiện việc Cáo trạng kết luận hành vi cỉa bị cáo gây bất bình trong nhân dân là không có căn cứ. Qua các lời khai của 85 người có quyền lợi nghia vụ liên quan mà HĐXX đã công bố ngày hôm qua cho tháy việc thu hồi lại các giấy chứng nhận đã cấp là không khả thi. Và họ không giao nộp bìa đỏ nhưng họ vẫn sử dụng đất …Điều này cho thấy có căn cứ xác định việc cấp giấy chứng nhận đối với phần đất này còn là biện pháp quản lý nhà nước và thu được ngân sách. Dây chính là những cái lợi cùa bị cáo đã làm nhưng đã bị bỏ qua và ngược lại hình sự hóa là phạm tội. Đây là nỗi oan vô cùng tận đối với những bị cáo đã từng cố hiến tuổi trẻ, công sức trí tuệ cho vùng núi cao Băc Kạn này nhưng lại được nhận kết cục quá đối bất công và tàn nhẫn…Đó là lý do chúng tôi là các luật sư ở HN không quản đường xa vất vả tham gia vụ án từ khâu điều tra để giúp các bị cáo vợi bớt phần nào sự oan khuất để chứng minh họ trong sạch không phạm tội hình sự mà Cáo trạng cố tình cáo buộc cho họ.

Chúng tôi xin khẳng định: Căn cứ quy định của pháp luật, các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện việc cấp giấy chứng nhận QSD đất cho các hộ gia đình cá nhân ở dọc tuyến đường Nguyễn Văn Tố mà trong thửa đất được cấp có 1 phần đất có nguồn gốc là đất chuyên dụng của Nhà nước là đúng với quy định của pháp luật và phù hợp với quy hoạch được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

Sau đây tôi xin nhắc lại những ý kiến đã được thẩm tra tại phiên tòa như sau:

Chứng minh cụ thể như sau:

-         Mục đích UBND tỉnh Bắc Kạn ban hành Công văn 749 vào năm 2002 nhằm trả lời công văn của Phòng địa chính thị xã Bắc Kạn đề xuất xin chủ trương giao phần đất chuyên dụng chưa sử dụng này cho dân làm nhà ở và có thu tiền sử dụng đất.

-         Tinh thần của công văn này là phù hợp với quy định của Luật đất đai năm 1993, sửa đổi năm 1998 và 2001, với hiện trạng sử dụng đất tại tuyến đường này vào thời điểm đó (nhu cầu về nhà ở của dân chưa thành cao trào mới chỉ có 1 vài nơi dân lấn chiếm làm nhà ở) và có hiệu lực cho đến khi Quyết định 298 ngày 24/2/2003 của UBND tỉnh Bắc Kạn ban hành để thực hiện các nội dung của dự án.

-         Tại phiên tòa đã làm rõ: Năm 1998 nhà nước thu hồi đất để giao cho UBND thị xã Bắc Kạn để làm đường Nguyễn Văn Tố, do đặc điểm của địa hình miền núi nên khi thu hồi đã thu thừa thêm ở hai bên con đường phần đất để phục vụ cho việc thi công. Ngay từ khi con đường đang được xây dựng thì phần đất chuyên dụng ở dọc tuyến đường nằm sau chỉ giới xây dựng đã dần dần bị dân ở phía sau lấn chiếm sử dụng để ở. Họ chính là người sử dụng đất có đất bị thi hồi để làm đường và được đền bù theo giá đất ruộng, lâm nghiệp tính cả hệ số K thì cũng chỉ đơn giá 27.000đồng/1m2. Trong hồ sơ các người liên quan có những người còn được đền bù giá thấp hơn con số này…như Nguyễn Duy Lộc…Việc lấn chiếm sử dụng phần đất này là thực tế vì phải đi qua phần đất này mới ra được đường Nguyễn Văn Tố và để sử dụng được họ đã bỏ công sức tiền của đế san lấp cho bằng với mặt đường chứ không phải do Nhà nước đầu tư xây dựng. Đó là lý do mà những người liên quan được tòa án triệu tập và thẩm vấn vào phiên xét xử đã có ý kiến đề nghị xem lại giá đất (tiền sử dụng đất) mà họ phải trả cho Nhà nước khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (phải nộp 100% tiền sử dụng đất với giá cao nhất trong bảng giá đất hiện hành vào thời điểm cấp giấy chứng nhận). Đó cũng là lý do khi nộp tiên sử dụng đất tùy theo vị trí cao thấp  người sử dụng đất còn được cơ quan thế giảm tiền theo quyết định 1979.

-         Trong hồ sơ thể hiện ngày 19/9/2002 Tổng cục địa chính nay là Bộ Tài nguyên và MT đã ban hành QĐ 403 phê duyệt dự án xây dựng mô hình đăng ký cấp giáy CNQSDD và quản lý biến động đất đô thị gcải cách hành chính trên địa bàn thị xã Bắc Kạn với phạm vi dự án các phường Đức Xuân, Minh KhaI, Phùng Chí Kiên, Sông Cầu, với tổng kinh phí hơn 1 tỷ đồng từ Ngân sách nhà nước. Tại điều 2 của QĐ thể hiện những nội dung chủ yếu của QĐ này liên quan đến vụ án hình sự hôm nay bao gồm:

*“ Điều tra đánh giá tình hình đo đạc, đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy CN1SDĐ, đăng ký biến động đất đai (2.1). Lý do vì năm 1997 mới tái lập tỉnh Bắc Kạn, có việc mở đường Nguyễn Văn Tố nên có biến động đất đai, hệ thống hồ sơ địa chính chưa có.

*Hoàn thành việc đăng ký , cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng hồ sơ địa chính (2.3). Chính có nội dung này nên mới có sự tham gia của Tổ dự án đến từng lô đất xem xét hiện trạng đo vẽ chỉnh lý bản đồ địa chính, lập thửa đất mới và phát tờ khai theo mẫu của Thông tư 1990 cho từng người dân trong đó ghi sắn các thông tin về thửa đất ( diện tích,loại đất, mục đích sử dụng đất,nguồn gốc đất…) và trong hồ sơ thể hiện tất cả các hộ dân có đơn xin cấp giáy chứng nhận dọc tuyến đường Nguyễn Văn Tố mà có phàn đất chuyên dụng của nhà nước thì đều được tổ dự án xác định là đất thỏ cư, khi cấp giấy chứng nhận họ phải nọp tiền sử dụng đất theo Nghị định 38 và mức là cao nhất theo Bảng giá đất ban hành theo Quyết định 1979 của UBND tỉnh Bắc Kạn có hiệu lực đến 31/12/2004).

* Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ địa chính các cấp (2.6): Nội dung này thể hiện trình độ cán bộ địa chính địa phương là chưa cao nên mới phải đào tạo nâng cao, nên trong quá trình đo đạc bản đố, đến hiện trạng xem đất, phát tờ khai đều có người của tổ dự án kể cả khâu Hội đồng xét cấp đất ở xã phường theo Thông tư 1990 cũng có người của tổ dự án tham gia. Với sự tham gia trực tiếp và sát sao của dự án như vậy không thể nói có sai sót trong việc xét cấp giấy chứng nhận quyền sư dụng đất có phần dất chuyên dụng của nhà nước được.

Có điều lưu ý là dự án không đạt ra việc nâng cáo trình độ chuyên môn của Chủ tịch UBND cấp phường và cấp thị xã vì chỉ có cán bộ địa chính cấp xã phường và cấp phòng mới được coi là công chức địa chính có chức năng tham mưu cho Chủ tịch UBND các cấp trong lĩnh vực quản lý đất đai trên địa bàn.

Việc xác định như vậy là phù hợp với quy định của pháp luật về thẩm quyền trong công tác quản lý nhà nước về dất đai từ Trung ương đến địa phương cụ thể:

-         Căn cứ điều 13 Luật đất đai 1993 quy định nội dung quản lý đất đai là quy hoạch và kế hoạch sử dụng đấtd, giao đất cho thuê đất thu hồi đất đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyến sử dụng đất”. Điều 32 Luật đất đai cũ quy định chức năng quản lý đất đai là của Cơ quan quản lý đất đai. Nghị định 181 ngày 29/10/2004 quy định “Cơ quan quản lý đất đai ở huyện quận thị xã thuộc tỉnh là Phòng TN và MT (diêm b khoản 1) và tại xã phường thị trấn là  cán bộ địa chính (khoản 2). Như vậy UBND thị xã không phải là cơ quan quản lý đát đai và chủ tịch UBND thị xã, phường cũng không phải là công chức quản lý đất đai mà là cán bộ địa chính xã phường và cán bộ Phòng địa chính là công chức quản lý đất đai.

-         Căn cứ khoản 3 điều 8 NĐ 181 quy định” Tiêu chuẩn và quyền hạn của những người này do Cơ quan quản lý đất đai ở TƯ là Bộ TNMT phối hợp quy định”. Như vậy những công chức quan lý đất đai có chức nang tham mưu cho Chu tịch UBND thị xã thực hiện theo quy định của pháp luật đất đai cũng như các công việc về quản lý đất đai mà pháp luật quy định. Điều này thể hiện việc Cáo trạng buộc tội bị cáo Hùng phải kiểm tra các hồ sơ hò sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  xem có đúng luật không nếu có sai sót thì chịu trách nhiệm.

-         Căn cứ vào nội dung quản lý nhà nước về đất đai như nêu trên thì thấy bao gồm việc đăng ký quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Các cong việc này thuộc thẩm quyền các cán bộ địa chính và theo Thông tư 1990 phải thông qua 1 hội đồng xét duyệt chi có hồ sơ nào đủ điều kiện mới trình lên phòng để thảm dịnh và sau thẩm định mới trình để chủ tịch phê duyệt cấp giấy CN.

-         Do vậy việc xác định hành vi ký phê duyệt cấp giấy CN của bị cáo có phải là nội dung quản lý đất đai hay chỉ là việc ký theo thẩm quyền như 1 thủ tục mà luật quy định. Căn cứ điều 4 NĐ 66 quy định: “UBND huyện quận thị xã có thẩm quyền cấp giấy CNSDD cho hộ gia đình cá nhân sử dụng đất”. Căn cứ điểm g TT1990thì sau khi được phòng địa chính chuyern đên chủ tịch UBND cấp huyện “trong thời hạn 7 ngày xem xét quyết định cấp giấy chứng nhạn cho những hộ đủ điều kiện”. Như vậy việc bị cáo chỉ ký mà không cần phải kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của hồ sơ cụ thể , mà chỉ căn cư vào tờ trình của phòng địa chính trên cơ sở biên bản họp xét của HĐ cấp xã phường là hoàn toàn đúng. Gỉa sử có sai sót trong hồ sơ thì cũng chịu trách nhiệm vì theo quy định của Luật đát đai chủ tịchUBND thị xã không phải là công chức quản lý đất đai. Nội dung của TT 1990 cũng quy định như vậy vì không thể cao hơn Luật đất đai được. Vì vậy toi bác bỏ Cáo trạng buộc tọi bị cáo thieus trách nhiệm trong việc xem xét ký phê duyệt các QĐ cấp giáy CN.

-         Ngày 24/2/2003 Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Kạn ký ban hành Quyết định 298 có nội dung Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện dự án theo Quyết định 403 ngày của Tổng cục địa chính.

-         Gia trị pháp lý của Quyết định này: là căn cứ vào Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994 quy định Chủ tịch tỉnh ký các quyết định chuyên môn thì vẫn coi như tỉnh chỉ đạo hướng dẫn thực hiện.

-         Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện tổ chuyên viên giúp việc dự án đã thực hiện đo vẽ chỉnh lý lại bản đồ dọc đường Nguyễn Văn Tố và đã nghiệm thu đưa vào sử dụng bản đồ địa chính năm 203 để hướng dẫn người sử dụng đất đăng ký xin kê khai quyền sử dụng đất và cấp giấy CNQSD đất đã xác định phần đất chuyên dụng của nhà nước còn lại sau khi làm đường là đất ở. Do đó không cần quyết định hành chính chuyển đổi mục đích sử dụng và việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là phù hợp khoản 6 điều 50 Luật đất đai và tương tự cũng không cần có quyết định giao đất cho dân sử dụng vì thực tế họ đã sử dụng phần đất này làm mục đích T.

-         Căn cứ Nghị định 38 thì việc thực hiện nghĩa vụ tài chính là căn cứ loại đất diện tích đất thì Ban chỉ đạo dự án đã xác định luôn phần đất chuyên dùng cưa sử dụng có loại đất thổ cư ký hiệu là T.

-         Mặt khác theo Công văn 749 thì trách nhiệm của UBND thị xã chỉ là phối hợp chứ không phải là cơ quan chủ trì và UBND tỉnh tù khi ban hành cho đến hết 2004 không có văn bản chỉ đạo mới.

Nội dung thứ hai: Phản bác việc Cáo trạng đưa ra kết luận buộc tội bị can không phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án hình sự và bỏ qua những chứng cứ có lợi cho bị can.

Tại trang 4 Cáo trạng có đoạn: “Bắt đầu từ cuối năm 2003 lấy lý do nhân dân có nhu cầu bức xúc về nhà ở, dự án cải cách thủ tục hành chính phải được nghiệm thu vào cuối năm 2004, giải quyết các hồ sơ tồn trước khi phòng giao dịch một cửa đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2005, Phòng Địa chính thị xã Bác Kạn đã sử dụng bản đồ quy hoạch mới do Công ty tư vấn xây dựng Thái Nguyên lập năm 2001 chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện và hướng dẫn địa chính của hai phường là Phùng Chí Kiên và phường Sông Cầu cho các hộ dân có đất liền kề với đất chuyên dùng lập hồ sơ kê khai đăng ký quyền sử dụng đất qua phường xét, đề nghị UBND thị xã Bắc Kạn công nhận quyền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong đó có một phần diện tích chuyên dùng với mục đích để làm nhà ở”.

Kết luận nêu trên không phù hợp với pháp luật và các tình tiết có trong hồ sơ vụ án hình sự cụ thể:

- Căn cứ điều Luật đất đai năm 2003 thì giấy chứng nhận được cấp tới tận từng thửa đất. Căn cứ khoản 2 điều Luật đất đai thì bản đồ địa chính là bản đồ thể hiện mọi thông tin về thửa đất. Như vậy không phải căn cứ vào bản đồ quy hoạch mới do Công ty tư vấn xây dựng Thái Nguyên lập năm 2005 vì bản chất loại bản đồ này không sử dụng cấp giấy CNQD đất. Như vậy có sự nhàm lẫn trong viecj áp dụng pháp luật về đất đai cụ thể: Khoản 3 điều 48  Luật đất đai quy dịnh việc cấp giấy chứng nhậnđến từng thừa dất, khoản 2 điều 47 quy định mọi thong tin thửa dat thể hien trong bản đồ địa chính. Như vậy luật quy định muốn cấp giấY CN phải có thửa đát.

Nhung trước khi cấp giấy phải có thủ tục đăng ký QSD đát, muốn đang ký phải kê khai, trước khi kê khai thì phải có bản đồ địa chính thì mới biets só thửa đất của dân thế nào. Đó chính là 1 trong những nội dung của dự án phải làm : Đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính. Năm 2003 đã đo đạc xong và đây là cơ sở pháp lý để dân kê khai, đăng ký và cấp giáy chứng nhận. Theo quy định của Luật đất đai là hai thủ tục hai khâu: kê khai đăng ký QSD rồi mới xinc cấp giấy CN nhign vì có du án nên đã gộp 2 thủ tục này lại.

Kết quả thẩm vấn đã chứng minh : Phạm vi Dự án là rộng hơn phạm vi truy tố của Cáo trạng: Vì Dự án bao gồm đăng ký và cấ giấy còn Cáo trạng chỉ là cấp giáy. Nếu việc kê khai đăng ký QSD là đúng phù hợp pháp luật thì việc cấp giấy CN là đúng pháp luật. Tại Bao cáo ngiêm thu số 415 của Sở TNMT Bk đã khẳng định hò sơ cấp giáy CN là đúng phap luat. Và cáo trạng cũng không chỉ ra được cac hò sơ cấp giáy CN là sai với luạt nen viecj buo toi bị cao thieus trách njiemtrong viecj cáp là hét sưc vo lý và không phù hợp với các tình tiết khạc quam cso trong hò sơ vụ án là Hò sơ nghiemj thu du án.

- Tại phiên tòa đã làm rõ bản đồ để làm căn cứ lập hồ sơ kê khai đăng ký quyền sử dụng đất để qua phường xét đề nghị lên cấp có thẩm quyền phê duyệt là bản đồ địa chính năm 2003 được đo vẽ chỉnh lý do Ban chỉ đạo thực hiện dư án chấp nhận.

- Tại phien tòa làn trước dã hoàn phien tòa làm rõ vấn đề “trong quá trình thực hiện Dự án xây dựng mô hình đăng ký, cấp giấy chứng nhận và quản lý biến động đất đô thị gắn với cải cách hành chính tại thị xã Bắc Kạn, Ban chỉ đạo thực hiện Dự án có đề xuất xin ý kiến chỉ đạo về vấn đề gì liên quan tới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có đất lưu không và thu tiền sử dụng đất không”. Tại Kết luận điều tra bổ sung số  38/KLĐT-BS ngày 22/7/2009 đã bổ sung chứng cứ quan trọng làm thay đổi bản chất vụ án đó là:

- Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào thời điểm tháng 11+12/2004 (là thời gian bị can Thân Đức Hùng ký phê duyệt 14 giấy CNQSD đất) là trong thời gian thực hiện “Dự án xây dựng mô hình đăng ký, cấp giấy chứng nhận và quản lý biến động đất đô thị gắn với cải cách hành chính tại thị xã Bắc Kạn” theo Quyết định số 403/QĐ-TCĐC ngày 19/9/2002 của Tổng cục địa chính (nay là Tổng cục quản lý ruộng đất) do Viện nghiên cứu địa chính làm Chủ dự án. Điều đó có nghĩa là việc Cơ quan điều tra buộc tội cho 1 mình bị can với tư cách là Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn làm thất thoát tài sản của nhà nước là không có căn cứ nhất là lúc đó bị can làm Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn không phải thành phần trong Ban chỉ đạo thực hiện Dự án.

Cáo trạng chỉ xác định có dấu hiệu trong quá trình quản lý đát đai và cáp giấy chứng nhận QSDD, còn quá trình đăng ký thì không có vấn đề gì như vậy có thể nói việc đăng ký QSD đất là đúng. Căn cứ khoản 18 điều 4 Luật đât đai năm 2003 quy định: “Đăng ký QSD đất là việc ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đói với 1 thửa đât xác định vào hô sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất . Căn cứ kết quả thẩm tra tại phiên tòa xác định tại tuyền đường Nguyễn Văn Tố hiện trạng sử dụng đất là bao gồm 2 loại đất: đát của người dân đang sử dụng đất và phần đất chuyên dụng không sử dụng đất (là đất làm đường còn thừa nằm ngoài chỉ giới xây dựng). Trong quá trình thực hiện dự án theo Quyêt định 403 của Tổng cục địa chính và Quyết định 298 của UBND tinh Bắc kạn thành lập Ban chỉ đạo thực hiện dự án đã thực hiện đo vẽ chỉnh lý bản đồ địa chính năm 2003 đã xác lập thửa đất mới bao gồm có đất của dân ở đằng sau và đât chuyên dụng ở dằng trước . Đây là thửa đất mang số hiệu của thửa cũ của dân được xác định mục đích sử dụng là vườn (V) nhưng có them phần đất chuyên dụng được xác định mục đích sử dụng là T (thổ cư).

Căn cứ Báo cáo kiểm tra kỹ thuật nghiệm thu khối lượng chát lượng công trình đo đạc chỉnh lý bản đồ và đăng ký cấp giấy chứng nhan quyền sử dụng đất tại văn bản số 415/BC-TN&MT của Sở tài nguyên và môi trường, mục 4 điểm a về Đo đạc chỉnh lý biến động, tại phần số thứ tự thứ 4 ghi rõ:” Số lượng hồ sơ thửa đất phải lập lại (hò sơ kỹ thuạt thửa đất và Biên bản xác định ranh giới,mốc giới thửa đất): Phường Sông Cầu: 3.992 thửa, phường Phùng chí kiên: 2.257 thửa.

Như vậy đây là căn cứ pháp lý để thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng quy định của Luật đất đai, không thể nói là cấp có đất chuyên dụng của nhà nước trái quy định. Vì sau khi đã thực hiện đăng ký quyền sư dụng đất và được vào hồ sơ địa chính thì người sử dụng đất có đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đát đối với thửa đất có 1 phần đất chuyên dụng mà không cần có quyết định hành chính để chuyển mục đích sử dụng, thu hồi đất và giao đất như Cáo trạng đã buộc tội.

-         Những chứng cứ có giá trị gỡ tội cho bị can thể hiện trong Kết luận điều tra đó là lời khai của những người giữ trọng trách trong Ban chỉ đạo thực hiện Dự án gồm: 1) Ông Lưu Đình Tông- chức vụ giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường làm Trưởng ban đã xác nhận “nội dung cơ bản của dự án là đo đạc và vẽ bản đồ địa chính…Ngày 7/5/2003 Ban chỉ đạo thực hiện dự án có công văn số 173/CV-DA đề xuất đo vẽ bản đồ đối với phần đất lưu không, các thửa đất chuyển mục đích trái pháp luật…” và 2) ông Ma Trương Thiêm- Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường làm Tổ trưởng Tổ chuyên viên của Dự án đã xác nhận” đối với phần đất lưu không ngoài nội dung chỉ đạo thực hiện theo công văn số 173 ngày 7/5/2003 thì không có chủ trương và văn bản nào khác”.   Cáo trạng dựa vào cong văn nàu de cho rằng khong có viecj Ban dự án chỉ dạo thu tienf sử dụng dát khi cáp dát chuyen duntj của nhà nước cjo dan dang sử dụng. Lạp luận này là khong có cơ sở vì Ban dự án đã trực tieps huwongs dãn nen khong có văn bản chỉ dạo mà thẻ hienj luon bang sự viecj dso là các chứng cứ:

·        Trong tờ đơn xin đăng ký QSD đất không thẻ hiện đất chuyên dụng của nhà niwocs mà dã là đất thỏ cư

·        Trong tờ trình của HĐ phwogf triknhf lên Pòng cũng không có loại đát chuyene gfungf\

·        Khoogn có 1 tafilieuj nào nói là dáy chuuen fungf của nhà niwpcs

·        Tao phien tòa tatcar lpwif khai là khi cowquan dieuf tra vào cuocj thì mới bít là đát lưu khong và bị quy tội là cáp đát chuyen dụng của nhà nước.

·        Tôi khảng diknhj viecj Ban dự an xác dnhj dát dó kaf thỏ ciw và cáp gáy chứng nhạn là dung pháp luyatj cụ thẻ: khoan 6 dieuf 50Luạt dát dai 2003.

Cáo teangj vien dan Công văn 173 chỉ là liên quan đến đo vẽ chỉnh lý bản đồ có giá trị là hướng dẫn chuyên môn trong quá trình thực hiện dự án chứ không về lĩnh vực  cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai như thu tiền sư dụng đất và cấp giấy đối với đất chuyên dụng của nhà nước.  Sơ XD có văn bản gửi ciw quan dieuf tra thì cũng chỉ nói vè ciuen mon quna lý xay dụng còn quản lý ve cáp goáy ncjinwng nhạn klhong có chuen mpn.

Căn cứ vào hồ sơ nghiệm thu của dự án mà luật sư đã nộp cho tòa án vào ngày 8/10/2009 và Báo cáo số 415 của Sở Tài nguyên và Môi trường thì tất cả các hồ sơ cấp giấy chứng nhận là đúng quy định.

Vì vậy nhận định của Cáo trạng “liên quan đến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có đất lưu không và thu tiền sử dụng đất” phải thực hiện các thủ tục là “UBND thị xã Bắc Kạn muốn sử dụng phần diện tích đất lưu không này vào mục đích cho nhân dân làm nhà ở thì phải thỏa mãn các điều kiện: 1) Phải phù  hợp với quy hoạch chi tiết đã được cơ quan có thẩm quyền phên duyệt; 2) Phải được sự đồng ý của UBND tỉnh Bắc Kạn cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất chuyên dùng sang đất ở; 3) Ngoài ra hộ có nhu cầu phải có đơn xin giao đất được chính quyền địa phương xác nhận và UBND thị xã mới thực hiện giao đất tại thực địa. Các hộ thực hiện nghĩa vụ tài chính xong thì Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” (trang 5 ) là sự nhầm lẫn trong việc áp dụng pháp luật. Từ đó đã kết luận bị can Thân Đức Hùng có hành vi làm trái trong lĩnh vực quản lý đất đai (tức là làm trái điều 19, 23 Luật đất đai 1993; điều 31, 37 Luật đất đai 2003) là không có căn cứ, không phù hợp với các chúng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Theo quan điểm của luật sư chứng cứ mới thu thập được trong quá trình xét xử liên quan đến kết quả thực hiện dự án có giá trị chứng cứ gỡ tội cho bị can, cụ thể là căn cứ để khẳng định việc bị can Thân Đức Hùng phê duyệt các quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bao gồm phần đất lưu không, hoàn toàn đúng quy định của Luật đất đai, không làm thiệt hại tài sản của Nhà nước, uy tín của chính quyền địa phương. Nhưng sau khi tòa án xét xử, mặc dù kết quả thẩm vấn đã được làm rõ những chứng cứ buộc tội của cơ quan điều tra là không có cơ sở nhưng đại diện VKS vẫn xác định bị cáo có tội trong việc cấp giấy chứng nhận có đất chuyên dụng của nhà nước là trái quy định của pháp luật.

Quan điểm của luật sư là

Căn cứ Báo cáo tổng kết ngày 20/4/2004 của Viện nghiên cứu địa chính và Sở tài nguyên môi trường tại mục III đã nêu rõ các căn cứ pháp lý để thực hiện dự án gồm các quy định pháp luật về đất đai trong đó có Nghị định 17 và Thông tư 1990 của Tổng cục địa chính và tại mục III.3 Kết quả thực hiện đã nêu rõ kết quả thực hiện kê khai đăng ký đã xác định hố sơ đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận ở phường Sông Cầu như sau: Tổng số hồ sơ phát ra 1.178, hồ sơ được xét 530, hò sơ được đủ điều kiện 406. Phương Phùng Chí kiên: Tổng số hò sơ phát ra 560, số hồ sơ xét 410, hò sơ đủ điều kiện 305.

Như vậy thể hiện dự án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật nếu không đúng thì hồ sơ phát ra phải đúng với hồ sơ đủ điều kiện. Tại mục 3 phần này ghi rõ: Kết quả cấp giấy CNQSD đất: ở phường Sông Cầu là 406 và phường Phùng Chí Kiên là 305.

Căn cứ vào Báo cáo kiểm tra nghiệm thu sản phẩm dự án ngày 6/9/2004 của Viện nghiên cứu địa chính thì thấy kết quả thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Căn cứ Báo cáo giám sát thi công và quản lý chất lượng công trình sản phẩm ngày 16/9/2004 của Viện nghiên cứu địa chính đã xác định đúng quy định hiện hành.

*Trước hết cần đặt câu hỏi tại sao trong quá trình thực hiện dự án ông Lưu Đình Tông với tư cách là Trưởng ban Dự án lại “đề xuất đo vẽ bản đồ địa chính đối với phần đất lưu không…”. Lý do là đất biến động nên căn cứ điều ..Luật đất đai năm 2003 phải tiến hành ngay.

*Tiếp theo cần phải làm rõ đặc điểm, tình trạng, hiện trạng, nguồn gốc của phần đất lưu không –là đối tượng quan trọng trong vụ án này iychứ không thể hiểu 1 chung chung được và quy định pháp luật điều chỉnh đối với phần đất này.

Căn cứ vào kết quả thẩm vấn tại phiên tòa đã làm rõ đất lưu không ở ven đường Nguyễn Văn Tố chỉ là những rẻo đất thuộc đất Nhà nước thu hồi để làm đường Nguyễn Văn Tố có đặc điểm:

- Vị trí: Nằm sau chỉ giới xây dựng đường và nằm trước thửa đất của người dân (chính là người sử dụng đất có đất bị thu hồi để làm đường-họ được bồi thường với giá đất vô cùng thấp). Phần đất này được xác định là nhóm đất phi nông nghiệp, loại đất chuyên dụng  sử dụng vào mục đích công cộng cụ thể là để làm “công trình đường giao thông”(theo quy định tại điểm b khoản 5 điều 6 Nghị định 181).

- Tình trạng: Những rẻo đất này có hình thể không vuông vắn, diện tích thì manh mún và không thành thửa và đã được dân đào đắp san bằng nên không được xác định là thửa đất theo quy định tại khoản 1 điều 7 Nghị định số 181/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai. Thực tế phần đất lưu không đã được nhập vào thửa đất của người dân ở phía sau. Vì phần đất này nằm sau chỉ giới xây dựng đường nên được xác định là “đất chuyên dụng khác không sử dụng” theo quy định tại điều 6 Nghị định 66 /2001/NĐ-CP ngày  28/9/2001 của Chính phủ sửa đổi bổ sung 1 số điều Nghị định số 04/2000/NĐ-CP ngày 11/2/2000 về thi hành Luật sửa đổi bổ sung 1 số điều của Luật đất đai. Căn cứ vào điều này thì UBND cấp xã phường thị trất có nhiệm vụ quản lý phát hiện những hành vi lấn chiếm sử dụng trái mục đích, quy định này cũng phù hợp với điều 173 Luật đất đai năm 2003. Theo quy định này thì những diện tích đất chuyên dụng còn lại sau khi xây dựng đường Nguyễn Văn Tố thì UBND cấp xã phải quản lý mà không cần có 1 quyết định hành chính bàn giao. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện dự án, căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất và quy định của pháp luật dự án đã xác định đất này là đất thổ cư và đã dược xét duyệt theo dung quy định của thông tư 1990 là hoàn toàn đúng quy định tại khoản 6 điều 50 Luật đất đai năm 2003 là: đang phù hợp quy hoạch, đang sử dụng, được UBND xã phường thị trấn xác nhận không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cụ thể là các hồ sơ xét cấp giấy chứng nhận theo quy định của Thông tư 1990 và được dự án thực hiện theo QĐA 298 của UBND tỉnh Bắc Kạn thì không hề có ghi là đất chuyên dụng của nhà nước mà chỉ thể hiện là đất thổ cư và đất vườn. Do đó không thể nói là cấp đất chuyên dụng trái pháp luật.

 - Hiện trạng và thời điểm cấp giấy chứng nhận: đã bị người có đất ở phía sau chiếm sử dụng. Để sử dụng để ở họ đã đào đắp san bằng và 1 số đã xây nhà, để sử dụng để ở. Trong số đó có nhiều nơi đã xây thành nhà kiên cố. Căn cứ vào hồ sơ đăng lý quyền sử dụng đất thì trong Đơn đăng ký QSD đất lập theo mẫu của Thông tư 1990 đã in sẵn các thông tin về thửa đất (số thửa, tờ bản đồ), loại đất mục đích sử dụng đất và phần diện tích đất chuyên dụng đã được ghi là T (thổ cư). Điều này cho thấy Ban chỉ đạo dự án đã căn cứ bản đồ địa chính năm 2003 xác định mục đích sử dụng đất có nguồn gốc đất chuyên dụng của nhà nước.

- Việc Ban chỉ đạo thực hiện dự án xác định mục đích sử dụng của phần đất có nguồn gốc của nhà nước là T hoàn toàn phù hợp quy định của pháp luật: Căn cứ khoản 2 điều 7 Nghị định 181 xác định đó là “thửa đất trên đó có nhiều mục đích sử dụng…”.

-Căn cứ biên bản xét duyệt của Hội đồng cấp xã đã xác định phần đất lưu không đã được sử dụng vào mục đích làm nhà ở và theo quy định của luật đất đai họ được cấp giấy chứng nhận và phải nộp tiền sử dụng đất.  Đó là lý do những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được triệu tập tham gia phiên tòa đã nêu lên sự bất công là: họ phải mua lại đất của nhà nước với giá cao nhất của khung giá (thường là mức 300.000 đồng/1m2) trong khi họ đã mất chi phí để đầu tư vào đất làm tăng giá trị. Tất cả những người liên quan khi được tòa hỏi có đề nghị gì không thì đều trả lời: đề nghị Nhà nước xem xét phần chi phí họ đã bỏ ra để san bằng, đào đắp đất để sử dụng được làm đất ở (vấn đề này chắc chắn phải được ghi rõ trong bút ký phiên tòa).

* Cơ quan điều tra cho rằng bị can Thân Đức Hùng có hành vi làm trái trong lĩnh vực quản lý đất đai (làm trái điều 19, 23 Luật đất đai 1993; điều 31, 37 Luật đất đai 2003). Kết luận này là sai lầm vì đã áp dụng không đúng điều luật để xác định chế độ pháp lý đối với phần đât lưu không tại thị xã Băc Kạn, quy định pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thu tiền sử dụng đất. Chúng tôi xin chứng minh như sau:

- Ngày 1/11/2004 Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT Về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính trong đó có những điều luật được áp dụng để xác định có hay không có hành vi làm trái pháp luật về đất đai qua việc ký phê chuẩn quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cụ thể:

- Điều 1.2 mục I: Quy định đối tượng áp dụng là Sở Tài nguyên và Môi trường, phòng Tài nguyên và Môi trường và cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn.

- Điều 2.1 mục I  : Quy định về Hồ sơ địa chính bao gồm: bản đồ địa chính, sổ địa chính, sổ mục kê đất đai, sổ theo dõi biến động đất đai.

- Điều 2.2 mục I : Quy định trong hồ sơ địa chính có bản đồ địa chính là bản đồ” về các thửa đất, được lập, mô tả các yếu tố tự nhiên của thửa đất và các yếu tố đại hình có liên quan đến sử dụng đất”.

- Điều 4 mục I là căn cứ pháp lý quan trọng để xác định ranh giới con đường NguyễnVăn Tố đã được xây dựng với phần đất lưu không không sử dụng để làm đường. Cụ thể: Theo định nghĩa tại điều 4.1. thì “đất xây dựng đường giao thông được gọi là đối tượng chiếm đất nhưng không tạo thành thửa đất”. Điều 4.2 quy định cách xác định ranh giới sử dụng đất xây dựng đường giao thông…”được xác định theo chân mái đắp hoặc theo đỉnh mái đào của công trình..Trường hợp đường giao thông theo tuyến không có mái đắp hoặc mái đào thì xác định theo chỉ giới xây dựng công trình”.

- Điều 1.1 mục III: Quy định “bản đồ địa chính được lập trước khi tổ chức việc đăng ký quyền sử dụng đất và hoàn thành sau khi được Sở Tài nguyên và Môi trường xác nhận”. Trong bản đồ địa chính phải thể hiện cụ thể thửa đất-là đối tượng chủ yếu trong quản lý đất đai và thể hiện các đối tượng chiếm đất nhưng không tạo thành thửa đất (như đường giao thông). Đối với thửa đất: “Ranh giới, diện tích, mục đích sử dụng của thửa đất thể hiện trên bản đồ địa chính được xác định theo hiện trạng sử dụng đất”(điều 1.1 mục III). Tại điều 1.3 mục III quy định: Đối với đất xây dựng đường giao thông ..”phải thể hiện đường ranh giới sử dụng đất trên bản đồ địa chính theo quy định tại điều 4.2  và 4.4 mục I thông tư này” (tức là theo chỉ giới xây dựng).

- Điều 1.6 mục III quy định: “Bản đồ địa chính được chỉnh lý khi có thay đổi mã thửa đất, tạo thửa đất mới, …có thay đổi mục đích sử dụng đất, đường giao thông…được tạo lập mới hoặc có thay đối về ranh giới, có thay đổi về mốc giới, ..về ranh giới hành lang an toàn, về chỉ giới quy hoạch  sử dụng đất…”. Tại điểm e điều 2.5 mục III quy định: “ Trường hợp các đối tượng chiếm đất mà không hình thành thửa đất như đường giao thông…có thay đổi về tên gọi, diện tích thì cũng được chỉnh lý như đối với thửa đất”.

Căn cứ vào các quy định nêu trên xác định được lý do trong quá trình thực hiện Dự án, ông Lưu Đình Tông-với chức vụ Trưởng Ban chỉ đạo thực hiện dự án đã đề xuất “đo vẽ bản đồ đối với phần đất lưu không” là vì: 1) Phần đất lưu không còn lại không còn thửa và đã nhập vào thửa đất mới của dân;2) Chỉ giới xây dựng của con đường Nguyễn Văn Tố đã hình thành và diện tích của đường cũng có thay đổi; 3) Vì “nội dung cơ bản của Dự án là: Đo đạc và vẽ bản đồ địa chính và Cấp giấy chứng nhận cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có đủ điều kiện và theo đúng quy hoạch…” (trang 4 Kết luận điều tra bổ sung số 38).

Căn cứ quá trình thẩm vấn tại phiên tòa đã xác định trong quá trình thực hiện dự án đã tiền hành đo vẽ chỉnh lý bản đồ địa chính năm 2003 và được nghiệm thu đưa vào sử dụng. Việc hướng dẫn các hộ dân kê khai đăng ký là căn cứ vào bản đò địa chính này. Tổ dự án đã cùng cán bộ dịa chính tổ dân phố xuống từng hộ dân đi vẽ và xác định hiện trạng đất rồi về in trên máy vi tính các tờ đơn xin đăng ký quyền sư dụng đất đánh máy sẵn diện tích đất từng loại trong đó diện tích ký hiệu T tức thổ cư là có nguồn gốc từ đất chuyên dụng không sử dụng của nhà nước. Sau đó phát cho dân ký tên rồi thu lại nộp cho Hội đồng phường xét theo quy định của Thông tư 1990. Những hộ nàođủ điều kiện thì được phường tổng hợp trình lên cho Phòngđịa chính thẩm định rồi trình  Chủ tịch UBNDthị xã phê duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy việc kê khai đăng ký quyền sử dụng đất do tổ dự án giám sát trực tiếp thực hiện là đúng pháp luật. Do đó việc cấp giấy chứng nhận cho thửa đất đã được đăng ký đúng pháp luật cũng đúng pháp luât. Hai thủ tục này gần như là làm cùng 1 thời điểm.

Như vậy với quy trình như vậy việc bị can Thân Đức Hùng ký 14 quyết định phê duyệt cấp giấy CNQSD đất là không trái quy địn của pháp luật.

Căn cứ vào số liệu của kết quả nghiệm thu cho thấy số liệu hồ sơ phát ra hồ sơ được xét và hồ sơ đủ điều kiện không giống nhau mà theo chiều hướng giảm. Như vậy là lô gic và thể hiện Tổ dự án thực hiện đúng pháp luật. Căn cứ các văn bản pháp lý để thực hiện dự án như Nghị định 17, thông tư 1990…cho thấy dự án được thực hiện theo quy định của pháp luật nên các kết quả của dự án có giá trị như của UBND tỉnh ban hành.

Căn cứ hồ sơ thì thấy việc cấp giấy chứng nhận QSD đất trong 2 tháng cuối năm 2004 có sự tham gia của dự án và trình tự thủ tục xét cấp giấy chứng nhận vẫn tuân theo Thông tư 1990 nhưng có thêm thủ tục ban đấu là tổ dự án xuống từng hộ để xác định hiện trạng đất và diện tích từng loại đất, xác định luôn diện tích đất chuyên dụng là đất thổ cư. Việc xác định như vậy là đúng quy định của pháp luật là: đất đang sử dụng, không có giấy tờ, được UBND phường xác nhận không có tranh chấp,phù hợp quy hoạch thì đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận và phải nộp tiền sử dụng đất 100% (khoản 6 điều 50 Luật đất đai năm 2003).

*Tại phiên tòa công khai ông Vũ Mạnh Cường-cán bộ địa chính phường Sông Cầu khi trả lời luật sư tại phiên tòa là: khi kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng người dân kê khai thửa đất của mình trong đó bao gồm phần đất thổ cư của họ và phần đất lưu không của Nhà nước. Như vậy chứng tỏ thửa đất mới đã được xác lập và được Sở Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành đo vẽ bản đồ để làm căn cứ thực hiện dự án cụ thể cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất. Căn cứ lời khai của bị can Hoàng Châu Giang, Hoàng Văn Thắng, ông Vũ Mạnh Cường đều xác định khi tính toán nghĩa vụ tài chính cán bộ thuế cũng có bản đồ địa chính riêng để xác định cụ thể loại đất, diện tích đất mà người sử dụng đất kê khai từ đó tính ra tiền sử dụng đất. Nên trách nhiệm gây thiệt hại tài sản cho nhà nước do chênh lệch tiền sử dụng đất (nếu có) không thể quy cho 1 mình bị can Thân Đức Hùng được.

- Tại phiên tòa các cán bộ ở phường xã đã khẳng định việc xét cấp giấy chứng nhận theo quy trình xét cấp giấy chứng nhận thông qua 1 hội đồng cấp xã phường theo Thông tư số 19902001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục địa chính. Nhiệm vụ, thẩm quyền của UBND cấp xã, phường “căn cứ vào đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất của người sử dụng đất để thẩm tra và xác nhận về hiện trạng sử dụng đất  bao gồm: tên người sử dụng đất, vị trí, diện tích, loại đất, ranh giới sử dụng đất, nguồn gốc đất, quy hoạch sử dụng đất” (điểm b khoản 3 mục I chương 3). Nhưng khi xét duyệt chỉ xét nội dung về trình trạng tranh chấp vì hiện trạng đất quy hoạch sử dụng đất đã được tổ dự án xác định. Tuy trong hồ sơ có 1 số thông tin không điền hết như tên tuổi, xác nhận của phòng địa chính …thì đó chỉ là sai sót về hành chính còn hồ sơ đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật.

Điều này thể hiện trên các báo cáo nghiệm thu hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Dự án do Tổng cục quản lý ruộng đất cung cấp, phù hợp với báo cáo nghiệm thu số 415 ngày…của Sỏ Tài nguyên và Môi trường tỉnh Băc Kạn là các hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận QSD đất là đủ điều kiện và phù hợp pháp luật.

-Và việc bị can Thân Đức Hùng ký phê duyệt các quyết định cấp giấy chứng nhận trên cơ sở hồ sơ đã được cấp xã, cấp phòng xét duyệt thẩm định theo đúng quy trình và thủ tục của Thông tư 1990 là theo quy định tại điểm h khoản 3 mục I chương 3 về Duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Theo điều này thì công việc của bị can chỉ là : “ Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ do Cơ quan địa chính cùng cấp chuyển đến (kèm theo Tờ trình thẩm định, dự thảo quyết định cấp kèm theo danh sách, giấy chứng  nhận quyền sử dụng đất cho các trường hợp đủ điều kiện)”. Vì bị can không có nhiệm vụ chỉ đạo liên quan đến đất lưu không và thu tiền sử dụng đất nên hành vi của bị can không thể có dấu hiệu tội hình sự quy định tại điều 285 BLHS.

Tóm lại:  Căn cứ Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29/10/2004 hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực từ 1/7/2004 thì Sở Tài nguyên và môi trường “có trách nghiêm phải chỉnh lý hồ sơ địa chính bao gồm đo vẽ lập bản đồ địa chính, sổ địa chính, sổ biến động đất đai, sổ mục kê để làm căn cứ cấp giấy chứng nhận quyên sử dụng đất cho người sử dụng đất”. Do đó, tuy không có văn bản nào chỉ đạo về cấp giấy chứng nhận và thu tiền sử dụng đất đối với phần đất lưu không. Nhưng việc cấp giấy chứng nhận cho các hộ dân có phần đất lưu không trong lô đất của họ trên cơ sở bản đồ địa chính cho Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện theo quyết định của Ban chỉ đạo thực hiện Dự án và đã được nghiệm thu là hoàn toàn đúng quy định pháp luật về đất đai (Thông tư 29 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thi hành Nghị định 181).

Từ phân tích trên chúng tôi thấy bản kết luận điều tra bổ sung số 38 vẫn cho rằng “có đủ căn cứ buộc tội bị can Thân Đức Hùng phạm tội theo điều luật đã khởi tố” là không phù hợp với các tình tiết khách quan của hồ sơ vụ án, vi phạm nguyên tắc “làm oan người vô tội”.

Nội dung thứ ba: Phản bác việc Cáo trạng kết luận hành vi của bị can đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của Nhà nước và uy tín của chính quyền.

            Tại trang 5 Cáo trạng viết như sau: “Việc làm sai quy định của pháp luật và không tuân thủ ý kiến chỉ đạo của UBND tỉnh Bắc Kạn của các bị can Hoàng Châu Giang, Hoàng Văn Thắng, Thân Đức Hùng, Hà Thị Kỷ và  Lê Văn Khương đã gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước là 23.238m2 đất chuyên dụng bị cấp trái quy định của pháp luật”.

Sau đấy là lập luận phản bác nội dung này như sau:

- Căn cứ điều k3 điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự quy định khi nghị án chỉ căn cứ vào kết quả thẩm tra đánh giá các chứng cứ tại phiên tòa. Trong vụ án này để xác định các hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận của các hộ dân ở dọc đường Nguyễn Văn Tố thuộc 2 địa bàn phường Phùng Chí Kiên và phường Sông Cầu không đủ điều kiện để cấp, Cáo trạng đã dựa vào Kết luận giám định số 149 ngày do 3 giám định viên tư pháp công tác tại Sở tài nguyên và Môi trường Bắc Kạn thực hiện. Nhưng tại phiên tòa chỉ có 1 giám định viên là ông Nguyễn Hòa tham dự và chỉ chịu trách nhiệm đối với 18 quyết định phê duyệt mà ông thực hiện giám định. Do đó tôi đề nghị Viện kiểm sát rút 1 phần thiệt hại. Cụ thể trong 18 quyết định phê duyệt có 6 quyết định là do bị cáo ký là quyết định số 300, 617,74, 1004, với số diện tích đất chuyên dụng của nhà nước chỉ còn là 8.762.342m2.

-Việc Cáo trạng không xác định thiệt hại bằng số tiền cụ thể mà bằng diện tích đất là trái với quy định của Nghị định 26 ngày 2/4/2006 của Chính phủ về hội đồng định gióa tài sản trong tố tụng hình sự và Thông tư số 55 ngày 26/6/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện NĐ 26.

- Tuy nhiên kết luận giám định của ông Hòa không phù hợp Pháp lệnh giám định tư pháp cụ thể: Không chỉ ra căn cứ để thu hồi diện tích đất chuyên dụng này vì họ đã tự bỏ ra san lấp và không chỉ ra đươc điều luật để thu hồi diện tích này. Việc kết luận là hồ sơ không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận là trái với Kết luận về thực hiện dự án của Sở TN MT số 415 ngày…./…/2005 là hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSD đất là đủ điều kiện”

- Để chứng minh thiệt hại Cáo trạng căn cứ vào Kết luận giám định tư pháp do Cơ quan điều tra trưng cầu bao gồm: Kết luận giám định ngày 3/8/2007 về giá đất 2 các giám định viên thuộc Sở Tài chính tỉnh Bắc Kạn thực hiện. Đây cũng chính là căn cứ duy nhất để Cơ quan điều tra ra Quyết định khởi tố bị can đối với ông Thân Đức Hùng số 86 ngày 4/9/20

Tại phiên tòa qua quá trình thẩm vấn các giám định viên tư pháp đã thừa nhận không thực hiện Nghị định 188 về xác định giá mà chỉ lấy số liệu tại Biên bản thông nhất đơn giá ngày 28/12/2004 để làm cơ sở cho tỉnh ban hành Nghị định 3131 có hiệu lực từ 1/1/2005.

Cụ thể:

-Bản Cáo trạng dựa vào Kết luận giám định về giá đất ngày 3/8/2007 do các giám định tư pháp thuộc Sở Tài chính tỉnh Bắc Kạn thực hiện theo trưng cầu của Cơ quan Cảnh sát điều tra –Công an tỉnh Bắc Kạn để tính ra thiệt hại “với số tiền ít nhất 9.127.800 đồng” là khụng cơ sở phỏp lý vỡ: Chớnh những người thực hiện giám định đó thừa nhận khụng ỏp dụng bất cứ phương pháp nào để xác định giá đất chỉ lấy lại kết quả của Biên bản thống nhất xác định đơn giá các loại đất tại thị xó Bắc Kạn ngày 12/11/2004-là cơ sở để UBND tỉnh Bắc Kạn ban hành Quyết định 3131/2004/QĐ-UB ngày 28/12/2004 về bảng giá các loại đất năm 2005 trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn (có hiệu lực từ 1/1/2005) và chúng tôi-các luật sư bào chữa cho bị can Thân Đức Hùng đó gửi kiến nghị phản đối kết quả giám định tư pháp này và yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành trưng cầu giám định lại theo đúng quy định của Pháp lệnh giám định tư pháp và Luật đất đai năm 2003 (cụ thể về phương pháp xác định giá đất). Ngoài ra Cáo trạng cũn kết luận hành vi phạm tội của bị cáo “đó gõy hậu quả rất nghiêm trọng” và “gây dư luận xấu trong xã hội, ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân” nhưng không hề có tài liệu nào trong hồ sơ vụ án thể hiện hậu quả này.

Căn cứ quy định của pháp luật có hiệu lực vào thời điểm xảy ra hành vi phạm tội thì việc áp giá đất theo Quyết định 1979/2001/QĐ-UB ngày 18/10/2001 của UBND tỉnh Bắc Kạn là đúng quy định của pháp luật. Vì tại khỏan 1 điều 4 Nghị định số 87-CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại đất quy định UBND tỉnh Bắc Kạn có thẩm quyền “căn cứ vào Bảng khung giá của Chính phủ quy định giá các loại đất để làm cơ sở tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất, cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi”. Điều 5 quy định: “UBND cấp tỉnh được điều chỉnh lại giá đất đã quy định cho phù hợp với thực tế trong trường hợp giá đất có biến động do có đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, có khu công nghiệp, khu thương mại, khu du lịch mới”. Ngày 28/12/2004 UBND tỉnh Bắc Kạn mới ban hành Quyết định số 3131/2004/QĐ-UB về bảng giá đất có hiệu lực từ ngày 1/1/2005. Căn cứ buộc tội hết sức vô lý của Cơ quan điều tra-Công an tỉnh Bắc Kạn đã bị chỉ trích trong bài báo có nhan đề “ Khởi tố người làm đúng luật” đăng trên Báo Tiền phong số 169 ngày 17/6/2008. Bài báo này cũng đã đặt ra vấn đề xã hội mà chính quyền tỉnh Bắc Kạn phải giải quyết đó là: Nếu bị can Thân Đức Hùng bị truy cứu trách nhiệm hình sự do áp giá đất theo Quyết định 1979 khi phê duyệt cấp giấy CNQSD đất thì 1.400 hộ dân trên địa bàn thị xã Bắc Kạn bị  Nhà nước thu hồi đất vào thời điểm tháng 11+12/2004 cũng phải được tỉnh tăng tiền bồi thường lên theo biểu giá đất mới (là biểu giá mà Cơ quan điều tra sử dụng để tính toán ra số tiền thiệt hại để buộc tội cho bị can Hùng) để đảm bảo công bằng xã hội.

Nội dung thứ tư: Phản bác việc Cáo trạng đã áp dụng sai pháp luật để hình sự hóa quan hệ hành chính- cụ thể là thủ tục công nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của luật đất đai, giả sử có sai sót trong quá trình xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì hoàn toàn có thể xử lý theo quy định của Luật đất đai.

            Cụ thể đã hiểu sai điều 86 Luật Đất đai năm 1993 và điều 141 của Luật Đất đai năm 2003 để  lấy làm căn cứ hình sự hóa hành vi hành chính của bị can. Đây là quy định về xử lý đối với người quản lý vi phạm về đất đai thuộc chức năng nhiệm vụ với tư cách là đại diện UBND thị xã trong quản lý nhà nước về đất đai hoàn toàn không thể áp dụng trong việc ký phê chuẩn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tại trang 8 Cáo trạng viện dẫn điều 141 Luật Đất đai năm 2003 quy định như sau:

            “ Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với quy định của pháp luật trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất , xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai, quản lý hồ sơ địa chính, ra quyết định hành chính trong quản lý đất đai, thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về đất đai hoặc hành vi khác gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.

Từ đó lập luận: “ Qua kiểm tra với các bộ hồ sơ kê khai đăng ký quyền sử dụng đất của các hộ dã thu giữ, thấy từ cuối năm 2003 đến hết tháng 12/2004 đã có 24.4502 m2 đất chuyên dùng bị công nhận, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái quy định gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước. Trong đó trách nhiệm của các bị can được thể hiện như sau….

             Bị can Thân Đức Hùng ký 14 Quyết định gồm: Số 74 ngày 06.02.2004; số 243 ngày 09.4.2004; số 411 ngày 17.4.2004; số 300 ngày 14.5.2004; số 543 ngày 02.8.2004; số 617 ngày 13.9.2004; số 713 ngày 25.10.2004; số 718 ngày 01.11.2004; số 868 ngày 15.11.2004;số 3683 ngày 18.11.2004; số 966 ngày 22.11.2004; số 961 ngày 21.12.2004; số 769 ngày 22.12.2004 và số 1004 ngày 30.12.2004 gây thiệt hại cho Nhà nước 23.235,5 m2 đất chuyên dụng.

            Bị can Thân Đức Hùng, năm 2001 được Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn ký quyết định tạm giao 140m2 đất chuyên dùng tại tổ 15, phường Sông Cầu, thị xã Bắc Kạn, ngày 4.12.2002 bị can Thân Đức Hùng đã kê khai và nộp tiền sử dụng đất là 9.800.000 đồng ( đã được miễn giảm 30%). Đến năm 2004, bị can làm đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất thì thửa đất lại có diện tích 245,9m2 và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện có 160 m2đất thổ cư và 85,9m2 đất vườn tạp. Như vậy, so với quyết định tạm giao thừa 105,9m2 trong đó có 20 m2 đất thổ cư và 85,9m2 đất vườn. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này mang tên bị can và cũng do chính bị can ký”.

Việc ký các quyết định cấp đất, giao đất, thu hồi đất, chứng nhận QSDĐ thực chất là các hành vi hành chính do UBND các cấp thực hiện và  phân công người ký (có thể là Chủ tịch hoặc 1 Phó chủ tịch theo ủy quyền thường xuyên). Luật đất đai năm 1993, sửa đổi 1998 không có văn bản hướng dẫn quy định cụ thể về hành vi hành chính trong việc ký các quyết định cấp đất, giao đất, thu hồi đất nhưng có văn bản dưới luật hướng dẫn việc đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cụ thể là Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục địa chính về hướng dẫn, đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ. (Văn bản này được áp dụng cho hai tháng 11+12/2004 tuy Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực từ 1/7/2004).Về nguyên tắc áp dụng pháp luật thì nếu không có quy định riêng thì tuân theo luật chung. Nếu có quy định cụ thể thì tuân theo quy định này (với điều kiện quy định cụ thể không trái quy định chung). Cụ thể việc xác định hành vi ký phê duyệt các quyết định cấp GCNQSDĐ của bị can trong hai tháng cuối năm 2004 có trái luật hay không phải căn cứ vào Thông tư 1990 vì không thuộc phạm vi điều chỉnh của các điều 19, 23, 31 Luật đất đai 1993).

 Theo Cáo trạng kết luận hành vi phạm tội của bị can Thân Đức Hùng là ký phê duyệt 14 quyết định cấp GCNQSDĐ trong đó có 23.235,5m2 đất lưu không bị cấp trái phép, nhưng không xác định được thiệt hại bằng tiền là trái quy định của Nghị định 26.

Kết luận như vậy là trái với Luật đất đai và đã hình sự hóa quan hệ hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, gây oan sai cho bị can. Trong vụ án này bản chất hành vi của bị can Thân Đức Hùng –với tư cách Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn có thẩm quyền ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Thông tư 1990 - ký các quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có 1 phần là đất lưu không.

Thứ hai: Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bắc Kạn căn cứ vào Kết luận điều tra bổ sung số 38 của Cơ quan điều tra để truy tố bị can Thân Đức Hùng có hành vi phạm tội theo điều 281 Bộ luật hình sự về tội “ Lợi dụng chức vụ quyền hạn làm trái với công vụ” là không có căn cứ .

     Tại trang 8 Cáo trạng có đoạn: “Bị can Thân Đức Hùng, năm 2001 được Chủ tịch UBND thị xã Bắc Kạn ký quyết định tạm giao 140m2 đất chuyên dùng tại tổ 15, phường Sông Cầu, thị xã Bắc Kạn, ngày 4.12.2002 bị can Thân Đức Hùng đã kê khai và nộp tiền sử dụng đất là 9.800.000 đồng ( đã được miễn giảm 30%). Đến năm 2004, bị can làm đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất thì thửa đất lại có diện tích 245,9m2 và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện có 160 m2đất thổ cư và 85,9m2 đất vườn tạp. Như vậy, so với quyết định tạm giao thừa 105,9m2 trong đó có 20 m2 đất thổ cư và 85,9m2 đất vườn. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này mang tên bị can và cũng do chính bị can ký”.

2.1. Căn cứ vào lý thuyết cấu thành tội phạm:

Mặt khách quan của tội 281 phải được thể hiện ở hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn vì vụ lợi  hoặc động cơ cá nhân khác để làm trái với công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

- Về động cơ vụ lợi hoặc cá nhân: Căn cứ vào kết quả thẩm vấn tại phiên tòa cho thấy tài liệu trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra thu thập không chứng minh được bất kỳ dấu hiệu nào thể hiện bị can  có động cơ vụ lợi hoặc bất cứ động cơ cá nhân nào khác trong việc đăng ký kê khai lô đất duy nhất tại thị xã Bắc Kạn mà gia đình bị can ở.

Tại  Kết luận điều tra bổ sung số 38 (trang 5) có ghi: Căn cứ khởi tố là tại “Quyết định số 74/QĐ-UB ngày 6/2/2004 bị can Thân Đức Hùng đăng ký 01 lô đất có diện tích tăng từ 140m2 đến 245,9m2”.

Tại trang 9 bản Cáo trạng đã nhận định: “ Động cơ vụ lợi và động cơ cá nhân khác mà…bị can Thân Đức Hùng đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình làm trái quy định của nhà nước trong quản lý đất đai, công nhận quyền sử dụng đất trái quy định…Trong đó bị can Thân Đức Hùng phải chịu 160m2 đất chuyên dùng và 85,9m2 đất vườn. Ngoài ra bị can Thân Đức Hùng đã thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ của Chủ tịch  UBND thị xã Bắc Kạn trong việc quản lý đất đai gây hậu quả nghiêm trọng

Đây được coi là bằng chứng của sự vụ lợi. Nhưng cũng tại trang 3 Kết luận điều tra bổ sung đã thừa nhận: trong quá trình làm đơn xin cấp giấy chứng nhận cho lô đất (có thu tiền sử dụng đất) mà bị can được tạm giao vào năm 2002 để làm nhà ở, bị can đã kê khai diện tích thực tế đang sử dụng là 245,9m2. mục đích sử dụng T. Điều này thể hiện bị can đã trung thực khi kê khai, nên không thể có động cơ cá nhân nào.

Chứng minh tương tự bị can cũng không có động cơ vụ lợi nào khi ký Quyết định số 74/QĐ-UB ngày 6/2/2004 phê duyệt cấp giấy chứng nhận cho 185 hộ gia đình cá nhân trong đó có lô đất của gia đình bị can cũng theo quy định của Thông tư 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục địa chính.

- Về hành vi làm trái công vụ (thể hiện bằng hành động hoặc không hành động): Tại trang 3 bản kết luận điều tra bổ sung có nội dung: “trong biên bản xác định mốc giới diện tích là 245,9m2 mục đích sử T. Danh sách kèm theo Quyết định số 74, trong đó 200m2 mục đích sử dụng T, 45,9m2, mục đích sử dụng: Vườn. Trong giấy chứng nhận số Y503231 được quyền sử dụng 245,9m2 trong đó 160m2 mục đích sử dụng T, 85,9m2, mục đích sử dụng: Vườn”.

Tại phiên tòa công khai đã làm rõ các vấn đề: 1) Chênh lệch so với diện tích trong quyết định tạm giao là 105,9m2- là phần đất đằng sau do bị can tự san ủi để an toàn cho việc xây dựng nhà ở và thực tế là thể sử dụng được để làm nhà ở nên diện tích làm nhà chỉ có 140m2.  2) Còn việc xác định nguồn gốc và diện tích cụ thể đất vườn và đất thổ cư là do Hội đồng xét duyệt cấp phường thực hiện theo quy định của Thông tư 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục địa chính. (Đương  nhiên khi xét duyệt Hội đồng cấp phường phải căn cứ vào bản đồ địa chính do chính Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện đo vẽ trong quá trình thực hiện thực hiện Dự án). Đối chiếu vào quy định pháp luật thì việc xác định hiện trạng  sử dụng đất và loại đất cụ thể thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã theo quy định của Thông tư 1990 và được thông qua Quy trình xét duyệt của cả 1 Hội đồng.

Qua các chứng cứ trong bản kết luận điều tra bổ sung và kết quả của 4 ngày xét xử tại tòa án có căn cứ khẳng định hành vi của bị can đăng ký 01 lô đất có diện tích tăng từ 140m2 đến 245,9m2 không cấu thành tội hình sự quy định tại điều 281 BLHS.

-Tại phiên tòa cũng đã làm rõ: Phòng địa chính cũng gửi 1 bản danh sách các trường hợp đủ điều kiện cho Cơ quan thuế của thị xã. Theo Nghị định số 38/ND-CP ngày 23/8/2000 về thu tiền sử dụng đất, Cơ quan này có nhiệm vụ thẩm tra hiện trạng đất và hướng dẫn người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính theo tính toán của cán bộ thuế, chỉ sau khi người sử dụng đất thực hiện xong các khoản tài chính thì mới đến Phòng nhận giấy chứng nhận. Như vậy với quy trình như vậy thì không thể buộc tội cho bị can có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại điều 281 BLHS. Điều này phù hợp với kết quả điều tra cụ thể tại Bản kết luận điều tra bổ sung số 42 Cơ quan điều tra cũng đã xác minh làm rõ không có việc bị can chỉ đạo can thiệp vào thẩm quyền của cấp xã trong việc xác định đất ở và đất vườn.

-Căn cứ vào kết quả thẩm tra của cán bộ thuế thì diện tích nộp tiên sử dụng đất của gia đình bị can chỉ là 140m2 là hoàn toàn đúng quy định pháp luật vì đất vườn không phải nộp tiền sử dụng đất. Như vậy việc bị can ký phê duyệt Quyết định về cấp giấy chứng nhận cho lô đất của gia đình tôi trong đó có 140m2 ở không có dấu hiệu hình sự.

- Một dấu hiệu bắt buộc của tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây hậu quả nghiêm trọng đó là: phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn với thiệt hại thực tế. Vì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bắt đầu từ cơ sở do UBND xã chịu trách nhiệm thẩm tra về việc sử dụng đất, lại thông qua 1 Hội đồng xét duyệt tức là có tính chất tập thể (trường hợp lô đất của tôi tuy là được cấp đất-tức là đất có nguồn gốc nhưng vẫn phải thông qua xét duyệt nên hoàn toàn chắc chắn là không có gì riêng tư). Trong Tờ kê khai mà bị can-với tư cách là người sử dụng đất cũng như các hộ gia đình, cá nhân khác, được cán bộ địa chính phường phát và bị can đã kê khai diện tích thực tế đang sử dụng là 245,9m2. Nhưng trong quá trình xét duyệt Hội đồng xã đã xác định trong đó chỉ có 140m2 đất ở- diện tích này đúng với số liệu ghi trong Quyết định cấp đất. Số đất còn lại là đất vườn.

Do đó việc kết luận: “Như vậy là có sự khác nhau về diện tích, mục đích sử dụng là sai quy đinh… Việc tăng diện tích từ 140m2 lên 245,9m2 đã được làm rõ để làm căn cứ khởi tố bổ sung” là không có căn cứ.

- Theo quy định của tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ, dấu hiệu bắt buộc phải có là thiệt hại thực tế. Nhưng Cơ quan điều tra đã không có bất cứ tài liệu nào để xác định hành vi của bị can gây ra thiệt hại khi ký phê duyệt Quyết định cấp giấy chứng nhận số 74 ngày 6/2/2004 trong đó có lô đất của gia đình bị can.

Theo lý thuyết cấu thành tội phạm thì tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm xảy ra thiệt hại cho lợi ích của nhà nước….Và thiệt hại này phải xảy ra do chính hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn làm trái công vụ của bị can…Nhưng cũng không có chứng cứ nào thể hiện dấu hiệu này.

2.2. Căn cứ quy định của Luật đất đai việc diện tích đất thực tế nhiều hơn diện tích ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (và trong Quyết định cấp đất) không phải là hành vi vi phạm pháp luật:

- Luật đất đai năm 2003 (có hiệu lực từ 1/7/2004) quy định  về xác định diện tích đất ở đối với trường hợp có vườn, ao tại khoản 4 điều 87 như sau:

“Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành từ ngày 18 tháng 12 năm 1980 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này mà trong giấy tờ đó không ghi rõ diện tích đất ở thì diện tích đất có vườn, ao được xác định như sau:

 a) Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào điều kiện, tập quán tại địa phương quy định hạn mức công nhận đất ở theo số lượng nhân khẩu trong hộ gia đình

 b) Trường hợp diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở tại địa phương thì diện tích đất ở được xác định bằng hạn mức công nhận đất ở tại địa phương;

c) Trường hợp diện tích thửa đất nhỏ hơn hạn mức công nhận đất ở tại địa phương thì diện tích đất ở được xác định là toàn bộ diện tích thửa đất”.
        Theo Quyết định cấp đất năm 2002 chỉ có 140m2 đất ở. Cho đến thời điểm cấp giấy chứng nhận (2004) ranh giới thửa đất không hề thay đổi. Còn diện tích đất có tăng lên ở phần đất phía sau do đào sâu vào đồi để chống sạt lở cho căn nhà thì trường hợp lô đất của gia đình bị can Thân Đức Hùng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 điều 87 Luật đất đai.

Trên thực tế cũng chỉ có 140m2 xây nhà ở, phần còn hơn 100m2 không thể xây nhà ở được nên xác định là đất vườn là đúng quy định của Luật đất đai.

- Căn cứ quá trình thẩm vấn tại phiên tòa xác định được diện tích đất ở của gia đình bị cáo vẫn như quyết định xưa là chỉ có 140m2. Còn diện tích còn lại là đào sâu vào núi để  chống sạt lở và bị cáo đã kê khai trung thực. Kết quả xét thì Hội đồng phường đã xác định 160m2 đất ở là phù hợp hạn mức đất ở theo quy định tại điều…. khoản ..Luật đất đai năm 2003. Còn diện tích còn lại là vườn. Căn cứ điều 1 khoản 1 Nghị định 38 ngày ../../2004 thì chỉ có đất ở mới phải nộp tiền sử dụng đất còn đất vườn không phải nộp tiền vì thực tế cũng không sử dụng làm nhà và việc xác định tổng diện tích 249,5m2 là không chính xác vì sử dụng 2 phương pháp đo (đo bằng thước dây năm 2002)và máy toàn trắc đạc điện tử thời kỳ 2004.

- Căn cứ điều 45 Nghị định 84/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003 quy định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình trong trường hợp thửa đất ở có vườn ao thì thửa đất của gia đình bị can (thực tế chỉ có 140m2 xây nhà ở. Phần còn hơn 100m2 không thể xây nhà ở được nên xác định là đất vườn) thuộc quy định tại khoản 3 của điều này quy định: “ diện tích đất ở được xác định theo quy định tại khoản 3,4 và 5 điều 87 Luật đất đai”.  Như vậy diện tích đất ở được xác định là 140m2, nhưng trong giấy CNQSD đất có ghi là 160m2 (chênh 20m2) là không có thực tế vì phần chênh lệch 105,9m2 là phần nằm sau kè chắn đất. Theo quy định của Nghị định 38 thì hàng năm gia đình bị can phải nộp thuế sử dụng đất cho phần diện tích đất không thể sử dụng để ở  (tức là không hề gây thiệt hại cho nhà nước). Theo lý thuyết cấu thành tội phạm thì tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm xảy ra thiệt hại cho lợi ích của nhà nước….Và thiệt hại này phải xảy ra do chính hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn làm trái công vụ của bị can…Nhưng không có chứng cứ nào thể hiện dấu hiệu này.

- Căn cứ Nghị định 38/NĐ-CP ngày 23/8/2000 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất quy định như sau:” Hạn mức đất ở để tính mức thu tiền sử dụng đất quy định tại Nghị định này là hạn mức đất ở do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định”. Theo quy định này gia đình bị can chỉ phải nộp tiền sử dụng đất cho 160m2 đất ở còn không phải nộp tiền sử dụng đất cho phần đất vườn là đúng.  Tức là hoàn toàn không có động cơ vụ lợi hay động cơ cá nhân nào khác trong việc ký phê duyệt quyết định cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất như ghi trong Kết luận điều tra bổ sung đã cáo buộc.

Kiến nghị của luật sư:

Từ những phân tích nêu trên, nhằm góp phần để giải quyết vụ án đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người vô tội, chúng tôi trân trọng đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 điều 199 và khoản 3 điều 224 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên bị cáo Thân Đức Hùng không phạm tội.

Kính chào trân trọng

 

Hà Nội, ngày 16 tháng 10 năm 2009

Các luật sư ký tên

 

 

  Phan Thị Hương Thủy                     Phạm Thị Ngọc            Lương Quang Tuấn