QUAN ĐIỂM CỦA LUẬT SƯ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Phạm Thị Lưu

Ngày cập nhật: 25/07/2011
QUAN ĐIỂM CỦA LUẬT SƯ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Phạm Thị Lưu Nguyên đơn trong vụ kiện chia tài sản chung với Bị đơn là ông Phạm Văn Thanh

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

----------------o0o---------------

QUAN ĐIỂM CỦA LUẬT SƯ

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Phạm Thị Lưu

Kính thưa HĐXX,

Chúng tôi là Phan Thị Hương Thủy và Nguyễn Thanh Hùng, luật sư của Văn phòng luật sư Hoàng Long (Đoàn luật sư thành phố Hà Nội), xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Phạm Thị Lưu-là Nguyên đơn trong vụ kiện chia tài sản chung với Bị đơn là ông Phạm Văn Thanh cụ thể như sau:

Thứ nhất: Về yêu cầu thay đổi nội dung khởi kiện của Nguyên đơn.

Trong hồ sơ vụ án có các đơn khởi kiện sau đây của Nguyên đơn:

- Đơn khởi kiện xin chia thừa kế ngày 16/6/2004

- Có 2 Đơn khởi kiện đề ngày 20/7/2004

- Đơn xin chia thừa kế đề ngày 27/8/2004

- Đơn bổ sung đơn khởi kiện ngày 5/7/2005

- Đơn xin thay đổi nội dung khởi kiện ngày 6/9/2005.

Tại Đơn ngày 6/9/2005 có nội dung: Tôi làm đơn này đề nghị tòa án "phân chia tài sản chung  có nguồn gốc là di sản của bố mẹ để lại cho hai chị em (bà Phạm Thị Lưu và ông Phạm Văn Thanh) gồm: ngôi nhà cấp 4, 2 cây nhãn trên diện tích đất 327m2 và 1 cái ao diện tích 388m2 tại tổ 9 phường Thượng Thanh, Long Biên, Hà Nội". Và "bằng đơn này tôi xin rút lại các đơn khởi kiện trước đây về thừa kế". Tại phiên tòa hôm nay Nguyên đơn cũng xác định rõ yêu cầu khởi kiện của mình là chia tài sản chung. Do vậy chúng tôi xác định Đơn ngày 6/9/2005 là chính thức thay thế các đơn khác trước đó của Nguyên đơn.

Căn cứ điểm b khoản 1 điều 59 BLTTDS quy định về quyền và nghĩa vụ của Nguyên đơn như sau: Nguyên đơn có quyền "thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện". Do vậy chúng tôi đề nghị HĐXX giải quyết yêu cầu của Nguyên đơn theo Đơn ngày 6/9/2005.

Thứ hai: Xác định quan hệ pháp luật mà Nguyên đơn yêu cầu tòa án giải quyết:

Căn cứ nội dung của Đơn ngày 6/9/2005 chúng tôi xác định quan hệ pháp luật mà Nguyên đơn yêu cầu tòa án giải quyết là "chia tài sản chung" thuộc quy định tại khoản 7 điều 25 BLTTDS  là "theo quy định của pháp  luật". Tức là các quy định pháp luật sau đây: Nghị quyết số 02 ngày 10/8/2004 của HĐTP-TANDTC hướng dẫn áp dụng 1 số  quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình, các quy định của BLDS năm 2005 về sở hữu chung tại mục 4 chương XIII.

Thứ ba: Xác định tài sản chung của các đương sự.

Căn cứ điểm a mục 2.4 phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định như sau: " ...Sau khi kết thúc thời hạn 10 năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa phân chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về tài sản chung để giải quyết".

Vận dụng quy định pháp luật nêu trên đối chiếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa cho thấy có đủ điều kiện để chuyển di sản của cụ Phạm Văn Thông và Phạm Thị Lư thành tài sản thuộc sở hữu chung của bà Lưu và ông Thanh cụ thể là:

- Các tài liệu: Giấy tự khai ngày 5/7/2005 của ông Phạm Văn Thanh,Biên bản hòa giải tranh chấp đất thừa kế ngày 23/9/2004, Đơn đề nghị TA xác minh thu thập chứng cứ của bà Lưu ngày 12/9/2005

Qua các tài liệu nêu trên, phù hợp với lời trình bày của Nguyên đơn và Bị đơn tại phiên tòa hôm nay, thể hiện Nguyên đơn và Bị đơn đã thống nhất về các vấn đề như sau:

-Một là về huyết thống: Bà Phạm Thị Lưu (Nguyên đơn) và ông Phạm Văn Thanh (Bị đơn) là 2 chị em ruột. Bố mẹ của họ là cụ ông Phạm Văn Thông và cụ bà Phạm Thị Lư. Ngòai 2 chị em họ ra bố mẹ của họ không có con nuôi con riêng nào khác.

Như vậy là cả Nguyên đơn và Bị đơn không có tranh chấp về hàng thừa kế.

- Hai là về di sản của bố mẹ để lại: Cả bà Lưu và ông Thanh đều thống nhất khai: Tài sản của bố mẹ để lại (có nguồn gốc là của ông bà nội để lại cho bố mẹ) là 2 bất động sản: 1 là thửa đất ở diện tích 357m2  (trên còn ngôi nhà cấp 4 và 2 cây nhãn) và thửa đất ao có diện tích 378m2 tờ bản đồ sồ 9 Bản đồ địa chính xã Thượng Thanh, Long biên, Hà Nội. Hiện nay thửa đất ao của bố mẹ họ để lại nằm trong thửa ao số 99 bản đồ năm 1993 chung với các hộ liền kề là ông Nguyễn Văn Tề, bà Phạm Thị Nhuận và bà Nguyễn Thị Khuy.

Cụ Thông mất năm 1975 còn cụ Lư mất năm 1993, cả hai không để lại  di chúc định đọat khối tài sản này, khi bố mẹ còn sống cũng chưa phân chia cho 2 chị em. Sau khi bố mất năm 1975 mẹ là cụ Lư cũng không hề gọi 2 chị em đến để phân chia tài sản. Sau khi mẹ chết đi năm 1993 hai chị em cũng không hề có sự phân chia di sản của bố mẹ để lại.

Hiện nay ông Thanh quản lý sử dụng cả thửa ao lẫn thửa đất thổ cư. Còn bà Lưu thì ở trên đất của nhà chồng.

Như vậy là cả bà Lưu và ông Thanh đều thừa nhận di sản của bố mẹ để lại chưa chia.

Qua các văn bản là chứng cứ do Tòa án quận Long Biên thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án cho thấy thỏa mãn các điều kiện để chuyển hóa di sản do người chết để lại trở thành tài sản chung của những người thừa kế thụôc hàng thứ nhất của người chết theo quy định của Nghị quyết số 02 ngày 10/8/2004 của HĐTP-TANDTC. Căn cứ khoản 2 điều 80 BLTTDS quy định những tình tiết sự kiện không phải chứng minh là "sự thừa nhận của các đương sự". Do đó không phải chứng minh nhiều về các điều kiện chuyển di sản thành tài sản chung.

Căn cứ điều 215 BLDS năm 2005 quy định về xác lập quyền sở hữu chung như sau: " Quyền sở hữu chung được xác lập theo thỏa thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán". Do đó đã đủ cơ sở để xác định thửa đất thổ cư do ông Thanh đang quản lý và thửa đất ao liền kề với thửa ao của bà Nhuận và bà Khuy là tài sản chung của bà Lưu và ông Thanh theo quy định của Nghị quyết số 02 vừa viện dẫn.

Nay bà Lưu có yêu cầu tòa án giải quyết, tuy cụ Thông mất năm 1975 và cụ Lư mất vào năm 1993, nhưng tòa án vẫn giải quyết mà không phải áp dụng điều 645 BLDS  quy định về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là phù hợp với quy định của pháp luật.

Mặt khác căn cứ  mục 1.2 Phần II Nghị quyết số 02  ngày 10/8/2004 như sau: " Đối với trường hợp do người chết để lại mà người đó có  một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1,2 điều 50 của luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 01/ 7/ 2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế".

* Về xác định mẹ của các đương sự là cụ Phạm Thị Lư đứng tên trong sổ địa chính đối với 2 thửa đất này. Thời kỳ địa phương thiết lập bản đồ địa chính thì cụ Thông đã mất chỉ còn cụ Lư còn sống.

Căn cứ trích lục bản đồ địa chính phường Thượng Thanh thể hiện: Thửa đất ao: bản đồ năm 1985 là thửa số 279 diện tích 388m2,  chủ sử dụng là Dư. Bản đồ 1993 thì nhập chung trong thửa 99 diện tích 1565m2. Còn thửa đất ở thì bản đồ năm 1985 thửa số 278 diện tích 327m2, chủ sử dụng là Lưu. Còn bản đồ năm 1993 lại tách làm 2 thửa: thửa 117 diện tích 126m2 chủ sử dụng là Thanh còn thửa kia số 250 diện tích 127m2, trong sổ mục kê lại không có tên chủ sử dụng. Diện tích 2 thửa chỉ là 253m2.

Về việc sai lệch diện tích và tên chủ sử dụng như nêu trên, tại phiên tòa các đương sự thống nhất khai là họ không hề kê khai, việc sai sót là do nhầm lẫn trong quá trình đo đạc vào sổ mục kê. Còn bản chất thì cả hai thửa đất là đứng tên cụ Phạm Thị Lư (mẹ của Nguyên đơn và Bị đơn) vì lúc đó bố là cụ Thông đã mất nên chỉ có mẹ đứng tên. Chứ tại địa phương không hề có tên Dư và từ trước đến nay không có ai tranh chấp 2 thửa đất này. Bà Lưu còn cho rằng việc thửa đất ở ghi tên Lưu là có thể theo địa phương quen ghi tên con lớn.

Lời khai của các đương sự  phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án do Nguyên đơn xuất trình cụ thể là xác nhận của ông Bành Ty tổ trưởng tổ dân phố và của ông Ngô Văn Đường nguyên là cán bộ địa chính xã Thượng Thanh thời kỳ năm 1985, và phù hợp với kết quả xác minh của Tòa án quận Long Biên tại UBND phường Thượng Thanh.Căn cứ xác nhận của 'các ông bà Phạm Thị Nhuận, Nguyễn Văn Tề, Nguyễn Thị Khuy do bà Lưu cung cấp cho tòa án và căn cứ các kết quả xác minh ngày 7/9/2006 của Tòa án quận Long Biên đối với bà Phạm Thị Nhuận và bà Nguyễn Thị Khuy là hai chủ sử dụng ao liền kề với thửa ao của cụ Lư thì họ đều khai thửa ao 388m2 là của cụ Phạm Thị Lư -mẹ của bà Lưu và ông Thanh và giấy tự khai ngày 26/5/2006 của ông Nguyễn Văn Tề cũng thống nhất với bà Nhuận và bà Khuy. Từ trước đến nay tại địa phương cũng không có ai tên là Dư tranh chấp quyền sử dụng thửa ao này.

Tóm lại: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xác định về sử dụng đất như sau: Tuy trong sổ mục kê ghi là Dư và Lưu nhưng căn cứ xác nhận của các chủ sử dụng ao liền kề, kết quả xác minh của Tòa án quận Long Biên tại UBND phường Thượng Thanh ngày 23/8/2006 thì đó là sự nhầm lẫn chứ thực tế tên chủ sử dụng Phạm Thị Lư-là mẹ của ông Thanh và bà Lưu. Lý do nhầm lẫn là năm 1985 (lúc đó cụ Thông đã mất) chính quyền xã mời Trường đại học nông nghiệp I tiến hành đo vẽ bản đồ và cán bộ dẫn đạc đã sơ suất ghi nhầm tên chủ sử dụng đất. Tình trạng này là phổ biến tại địa phương.

 Tại Biên bản xác minh ngày 23/8/2006 tại UBND phường Thượng Thanh cung cấp cho tòa án như sau: " thửa ao số 465 diện tích 378m2. Do sổ mục kê chủ sử dụng đất năm 1960 đã bị thất lạc địa phương không còn lưu giữ nhưng thửa ao này địa phương thừa nhận là của cha ong ông Thanh chết  đi  để lại. Vẫn thửa ao này tại bản đồ địa chính năm 1985 thể hiện thửa số 279 diện tích 388m2 tờ bản đồ số 8, sổ mục kê ghi tên Dư là chủ sử dụng nhưng thực chất là Lư. Tại bản đồ năm 1993 khi đo đạc tòan bộ ao của các hộ không còn bờ ngăn cách nên chỉ thể hiện trong bản đồ là 4 hộ gia đình thể hiện tại thửa số 99 diện tích 1565m2. Thửa ao này có diện tích ao của bà Lư. Thửa ao này đã được các chủ sử dụng ao liền kề tại Biên bản xem xét thẩm định ngày 16/8/2005 xác định. Cả hai lần đo đạc đều vào sổ mục kê ghi tên chủ sử dụng đất. Nhưng do sơ suất của cán bộ địa chính dẫn đạc nên có sự nhầm lẫn tên chủ sử dụng đất. Đất của bà Phạm Thị Lư là mẹ của ông Thanh, bà Lưu cũng nằm trong tình trạng này (Lư ghi thành Dư và Lư ghi thành Lưu). Thực tế hai thửa đất ở và đất ao hiện ông Phạm Văn Thanh đang quản lý sử dụng có nguồn gốc của cha ông để lại, cha là Phạm Văn Thông, mẹ là Phạm Thị Lư, khi ông Thông bà Lư mất đi thì để lại cho con cháu sử dụng cho đến nay. Ông Thông và bà Lư có hai con chung là Phạm Thị Lưu và Phạm Văn Thanh. Ông Thông chết năm 1975, bà Lư chết năm 1993. Sau khi bà Lư chết thì vợ chồng ông Thanh quản lý tòan bộ hai thửa đất ở và đất ao từ đó đến nay".

 Như vậy có đủ cơ sở xác định  cụ Phạm Thị Lư  mẹ  của bà Phạm  Thị Lưu và  ông Phạm Văn Thanh có một trong các  loại giấy tờ  theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 50 Luật đât đai năm 2003 đó là :" Có tên trong sổ địa chính", cụ thể theo trích lục bản đồ địa chính của phường Thượng Thanh cho thấy chủ sử dụng đối với hai thửa đất: thửa đất ao và thửa đất thổ cư do mẹ của ông Thanh và bà Lưu đứng tên (cụ thể là bà Phạm Thị Lư).

Căn cứ mục 2 Phần II Nghị quyết số 02 nêu trên thì vì cụ Phạm Thị Lư có tên trong sổ địa chính nên được coi là có 1 trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 50 Luật dất đai năm 2003 nên kể từ 1/7/2004 quyền sử dụng thửa đất ao và thửa đất thổ cứ này là di sản thừa kế để lại cho các con -là bà Lưu và ông Thanh không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.

Vì quyền sử dụng thửa đất thổ cư và thửa đất ao là di sản của bà Phạm Thị Lư, nay có yêu cầu chia thừa kế thì tòa án giải quyết và không cần phải áp dụng quy định pháp luật về thời hiệu về quyền thừa kế.

Ghi chú: Mục đích viện dẫn và phân tích như nêu trên là để chứng minh tòa án giải quyết yêu cầu của Nguyên đơn mà không cần áp dụng quy định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế (10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế).

Các vấn đề tiếp theo cần phải xác định trong việc giải quyết vụ án này bao gồm:

*Về xác định bản đồ địa chính nào làm căn cứ để tòa án giải quyết đối với các thửa đất

- Thửa đất ao: Ngày 16/8/2005 tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và đã thống nhất lấy bản đồ địa chính năm 1960 để xác định ranh giới vì có 3 hộ đã san lấp ao chỉ còn phần ao của cụ Lư chưa san lấp diện tích đo thực tế là 378m2 chứ không theo số đo của bản đồ 1985 (388m2).

- Thửa đất ở: Theo bản đồ 1985 số đo là 327m2, bản đồ địa chính năm 1993 lại tách thành 2 thửa: số 117 và 250 và chỉ có 253m2. Tức là trích lục bản đồ năm 1993 so với trích lục bản đồ năm 1985 bị hụt đi mất 75 m2.

Theo lời khai của bà Lưu  và ông Thanh thống nhất đó là sai sót do đo đạc của địa chính chứ hiện trạng đất vẫn nguyên từ xưa của bố mẹ để lại, không có việc ông Thanh bán bớt hay lấn chiếm. Mặt khác việc ghi sai tên, sai diện tích ở tại địa phương trong quá trình đo đạc lập bản đồ địa chính là có thật. Do vậy bà Lưu đề nghị tòa án căn cứ Biên bản xem xét tại chỗ ngày 16/8/2005 để xác định diện tích thực tế là 357m2 là có cơ sở. Theo UBND phường Thượng Thanh cung cấp "có thể ông Thanh lấn 29m2 do xây tường ra phía ngõ". Theo quan điểm của luật sư cung cấp như vậy là không có cơ sở vì UBND địa phương không khẳng định mà cho là "có thể". Bản thân bà Lưu cũng không thừa nhận việc ông Thanh tôn tạo thêm diện tích này (29m2) cụ thể tại phiên tòa bà Lưu phản bác việc địa phương cho rằng ông Thanh lấn ra ngõ là: " Vì bản thân tường ở ngõ cũng bị xây thụt vào thì không thể bảo là lấn ra ngõ được". Mặt khác chính ông Thanh cũng thừa nhận tại phiên tòa là "không có gì thay đổi về hiện trạng đất từ trước đến nay" nên luật sư đề nghị tòa án như sau: Căn cứ khoản 8 điều 83 BLTTDS về xác định chứng cứ thì "kết quả định gía tài sản cũng được coi là chứng cứ". Do đó đề nghị tòa án căn cứ Biên bản định giá để lấy số đo cụ thể thửa đất thổ cư là 357m2.

Về các vấn đề liên quan đến việc sử dụng đất Tòa án quận Long Biên đã tiến hành xác minh tại UBND phường Thượng Thanh theo đơn đề nghị ngày 12/9/2005 của bà Lưu và kết qủa phù hợp với lời trình bày của đương sự.

Thứ tư. Xác định việc áp dụng các quy định pháp luật về sở hữu chung để giải quyết yêu cầu của Nguyên đơn.

Sau khi đã chứng minh các căn cứ để xác định thửa đất và thửa ao do ông Thanh đang quản lý là tài sản chung của ông Thanh và bà Lưu. Vấn đề tiếp theo cần xác định luật nội dung về phân chia tài sản chung.

- Qúa trình tranh chấp chia tài sản chung: Tuy bà Lưu có nói là khi còn sống mẹ bà có nói mồm là chia cho ông Thanh thửa đất còn chia cho bà sử dụng thửa ao nhưng trên thực tế thì hai chị em chưa hề có việc bàn bạc phân chia. Từ năm 2003 bà Lưu bắt đầu yêu cầu ông Thanh chia cho cái ao để sử dụng . Quan điểm của ông Thanh là "chị đã đi lấy chồng hưởng lộc bên nhà chồng nên không chia". Tuy nhiên "vì tình cảm" nên ông Thanh đồng ý chia cho bà Lưu lúc đầu 1/3 ao, sau 2/5 ao sau tại tòa thì một nửa ao. Tuy nhiên giữa hai đương sự chưa có 1 biên bản nào thống nhất về việc phân chia cái ao thuộc tài sản chung của bố mẹ. Vì sự việc này xảy ra trước khi bà Lưu khởi kiện ra tòa án và nằm trong thời hiệu 10 năm đối với di sản của mẹ (cụ Phạm Thị Lư). Do đó theo quy định tại điểm a mục 2.4 Phần I Nghị quyết số 02 ngày 10/87/2004 đòi hỏi giữa các đồng thừa kế phải có văn bản thì di sản mới chuyển hóa thành tài sản chung. Do không có văn bản nên không có cơ sở là các đương sự đã có sự thống nhất về phần của mỗi người được hưởng. UBND phường Thượng Thanh cũng đã tổ chức hòa giải ngày 1/3/2003 và 23/9/2004 với đầy đủ các thành phần theo quy định của luật đất đai nhưng không đạt kết quả nên  ngày 15/1/2005  UBND phường Thượng Thanh đã có báo cáo số 04 gửi Tòa án quận Long Biên đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Lý do UBND chuyển vụ việc sang tòa án là giữa hai chị em không thống nhất được về phần của từng người chứ không phải không thống nhất về hàng thừa kế, tài sản trên đất hay di sản của bố mẹ để lại.

Thứ năm: Về căn cứ để phân chia tài sản chung:

Để giải quyết yêu cầu phân chia khối tài sản chung tôi đề nghị tòa án căn cứ tiểu mục a3 tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02 quy định các trường hợp giải quyết về chia tài sản chung là: "Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định pháp luật về chia tài sản chung".

Vì hai chị em bà Lưu và ông Thanh chưa có sự bàn bạc về chia tài sản chung nên hai thửa đất và ao nêu trên được xác định là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Căn cứ  khoản 2 điều  217 BLDS quy định: "  Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung".

Như vậy theo nguyên tắc thì Tòa án chia đôi tài sản chung.

* Về yêu cầu của ông Thanh đề nghị tòa án chia thửa đất thổ cư chứ không chia thửa ao: Trong vụ án này ông Thanh là bị đơn, căn cứ điểm c khoản 1 điều 60 và điều 176 BLTTDS quy định Bị đơn có quyền phản tố hoặc có yêu cầu đối trừ đối với yêu cầu của Nguyên đơn và phải có nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật (khoản 1 điều 130 BLTTDS). Theo quy định tại điều 178 BLTTDS nếu ông Thanh có đơn phản tố thì phải làm thủ tục khởi kiện như Nguyên đơn và phải gửi kèm theo đơn kiện các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Nhưng ông Thanh không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng này nên tòa án không thể giải quyết yêu cầu chia tài sản chung và kể cả tính công sức trông nom, duy trì tôn tạo phát triển khối tài sản chung (nếu có) của ông và công san lấp ao.

* Về công sức: Căn cứ lời khai và tài liệu trong hồ sơ chỉ thể hiện vợ chồng con cái ông Thanh có công sức đối với thửa đất thổ cư ông đang ở. Nhưng gia đình ông cũng sử dụng thửa đất này và bà Lưu không yêu cầu chia đối với thửa đất  này nên không cần thiết xét công sức.

Đối với thửa ao, ông Thanh không có tài liệu gì để chứng minh có công sức duy trì, phát triển cụ thể: hiện nay ao chỉ còn 378m2 trong khi theo bản đồ 1985 là 388m2 (bị mất 10m2). Nay các hộ liền kề đã san lấp nên không thể đòi được. Mặt khác bà Lưu không thừa nhận ông Thanh có công tôn tạo, việc ông Thanh nộp thuế đất cho ao là vì ông đã sử dụng ao để thả bèo bắt cá, còn bà Lưu không sử dụng. Do đó theo quy định của Luật thuế thì ai sử dụng đất thì phải nộp thuế đất cho Nhà nước.

Tóm lại bà Lưu không chấp nhận trích công sức trông nom, tôn tạo, phát triển tài sản chung cho ông Thanh.

*Về việc công san lấp là 71,28m3 trị giá 2.531.000 đồng theo định giá của tòa án lần thứ 2: Quan điểm của luật sư như sau:

Căn cứ Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 16/8/2005 thể hiện: "Thửa đất ao được xác định như sau: Thửa đất ao này nằm trong cùng đất ao của các hộ liền kề, phía ngoài là đường bê tông trục chính rộng 3m. Hướng Nam của ao có đường bê tông rẽ vào rộng khoảng 2m. Riêng ao nhà bà Lư có độ sâu trung bình là 1,8m" như vậy thể hiện cái ao chưa hề có sự san lấp và không có công sức gì trong khi các ao liền kề đã được san lấp hết. Từ trước ông Thanh không hề yêu cầu công sức chỉ sau này mới đề nghị nhưng không có chứng cứ gì và cũng không yêu cầu cụ thể là bao nhiêu chỉ nói là " công sức là vô giá".

Tại lần định giá thứ 2, bà Lưu chỉ yêu cầu tòa án định giá lại đất ao chứ không đề nghị định giá công san lấp của ông Thanh. Tại biên bản làm việc ngày 12/4/2006 ông Thanh không yêu cầu tòa án định giá lại đất ao và cũng không đề nghị tòa án định giá công san lấp trong khi theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 58BLTTDS thì đương sự có quyền đề nghị tòa án định giá và có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí định giá theo quy định tại khoản 1 điều 140 BLTTDS . Vì vậy căn cứ điểm a khoản 1 điều 92 BLTTDS quy định: "tòa án chỉ thành lập hội đồng định giá theo yêu cầu của một hoặc các đương sự". Trong trường hợp này tòa án chỉ thành lập Hội đồng định giá để định giá quyền sử dụng đất ao theo yêu cầu của bà Lưu. Do đó việc tòa án định giá cả công san lấp ao cho ông Thanh trong khi các đương sự không có yêu cầu và bản thân ông Thanh không yêu cầu, không nộp tiền tạm ứng định giá là trái quy định của pháp luật.

Mặt khác như trên đã phân tích nếu ông Thanh không có đơn yêu cầu và không nộp dự phí thì tòa án không xem xét yêu cầu tính công sức của ông.

Về tính cụ thể: Căn cứ Biên bản định giá ngày 16/8/2005, Hội đồng  định giá trị giá quyền sử dụng đất  là 4.500.000 đồng/m2, phần  đất ao giá trị là 3.000.000đồng/m2.

 Nếu tính tổng giá trị thì thửa đất thổ cư có giá trị hơn thửa đất ao. Cụ thể :Giá trị thửa đất thổ cư là: 4.500.000đ/1m2 x 357m2= 1.606.500.000 đồng. Ngoài ra trên thửa đất này còn có giá trị di sản nhà và 2 cây nhãn. Gía trị thửa đất ao là: 3.000.000đ/1m2 x 378m2= 1.134.000.000 đồng. Căn cứ yêu cầu khởi kiện của bà Lưu thì từ trước đến nay bà Lưu chỉ đề nghị chia thửa ao để sử dụng. Như vậy giá trị tài sản mà bà Lưu được ít hơn ông Thanh, và bà Lưu phải bỏ tiền ra để thuê san lấp ao (và vì ao sâu nên sẽ rất tốn kém). Nhưng bà Lưu tự nguyện xin hưởng cái ao và không đề nghị ông Thanh thanh toán chênh lệch. Xét đây là sự tự nguyện và không trái pháp luật của bà Lưu đề nghị HĐXX chấp nhận.

Căn cứ biên bản hòa giải tại phường Thượng Thanh và sau này tại tòa án thì ông Thanh chỉ chấp nhận chia cho bà Lưu được sử dụng 1 nửa ao là chưa thỏa đáng và thiệt thòi cho bà Lưu nên yêu cầu của bà Lưu về chia cho sử dụng tòan bộ ao là hợp lý.

Theo quan điểm của luật sư việc chia cho bà Lưu sử dụng cái ao còn hợp lý ở chỗ: Căn cứ Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 16/8/2005 thể hiện thửa ao nằm độc lập riêng rẽ. không nằm chung với thửa đất thổ cư mà ông Thanh và gia đình đang ở do đó chia cho bà Lưu sử dụng tòan bộ ao là hợp lý. Mặt khác trên đất thổ cư của ông Thanh có công sức của vợ ông Thanh và các con nên việc chia vào đất này sẽ phức tạp có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của những người liên quan.,

Xét thực tế thì ông Thanh đã ở ổn định trên thửa đất thổ cư và đã có công sức tôn tạo nên đề nghị tòa án chia cho ông Thanh sử dụng nguyên trạng thửa đất thổ cư. Còn thửa ao đến nay vẫn chưa san lấp, thì cả ông Thanh và bà Lưu chưa có đóng góp công sức gì nay bà Lưu xin chia đề nghị tòa án chia cho bà Lưu được sử dụng thửa ao mà không yêu cầu ông Thanh thanh toán chênh lệch.

Trên đây là quan điểm của luật sư về hướng giải quyết vụ án, kính đề nghị HĐXX xem xét để ra 1 bản án công bằng và đúng pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.

Xin trân trọng cảm ơn.

Hà Nội, ngày 27 tháng 9 năm 2006.

Các luật sư

 

Phan Thị Hương Thủy               Nguyễn Thanh Hùng