Quan điểm luật sư bảo vệ quyền và lợi ích Nguyên đơn trong vụ án kinh doanh thương mại

Ngày cập nhật: 25/07/2011
Trên thực tế các tranh chấp kinh doanh thương mại luôn có những vấn đề phức tạp, các vụ án mà Công ty Luật TNHH Hoàng Long tham gia thường liên quan đến tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau, vì Luật doanh nghiệp 2005 mới chỉ quy định về hình thức, có tính chất nguyên tắc, có doanh nghiệp chủ yếu hoạt động dựa trên Điều lệ do các thành viên tự thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, Điều lệ của các Công ty nói chung và Công ty cổ phần nói riêng rất sơ sài, chung chung và đến khi tranh chấp xảy ra Tòa án không thể tìm thấy những quy định để giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các thành viên, đó là một trong những lý do làm cho vụ án tranh chấp giữa các thành viên công ty trở nên phức tạp, khó giải quyết hơn.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu sắc như hiện nay, bên cạnh sự phát triển, hợp tác cùng có lợi thì còn có sự tranh chấp mà không ai mong muốn. Và tư vấn, tranh tụng các vụ việc liên quan đến kinh doanh thương mại luôn là lĩnh vực đa dạng, phong phú để các luật sư tham gia và học hỏi kinh nghiệm. Công ty luật TNHH Hoàng Long cũng không nằm ngoài xu thế đó. Tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định tại Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự được hiểu là:

“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận

 2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhua và đều có mục đích lợi nhuận.

 3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thê, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.

 4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định”.

Và trên thực tế các tranh chấp kinh doanh thương mại luôn có những vấn đề phức tạp, các vụ án mà Công ty Luật TNHH Hoàng Long tham gia thường liên quan đến tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau, vì Luật doanh nghiệp 2005 mới chỉ quy định về hình thức, có tính chất nguyên tắc, có doanh nghiệp chủ yếu hoạt động dựa trên Điều lệ do các thành viên tự thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, Điều lệ của các Công ty nói chung và Công ty cổ phần nói riêng rất sơ sài, chung chung và đến khi tranh chấp xảy ra Tòa án không thể tìm thấy những quy định để giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa các thành viên, đó là một trong những lý do làm cho vụ án tranh chấp giữa các thành viên công ty trở nên phức tạp, khó giải quyết hơn.

Bên cạnh đó, khi tranh chấp giữa các thành viên được giải quyết tại Tòa án bằng một quyết định có hiệu lực pháp luật cũng không có ý nghĩa đảm bảo cho Doanh nghiệp tiếp tục phát triển, hoạt động kinh doanh bình thường. Chính vì vậy, đây là kinh nghiệm các Doanh nghiệp cần lưu ý, xây dựng Điều lệ chi tiết, cụ thể, phù hợp với hoạt động kinh doanh, là cơ sở để giải quyết tranh chấp phát sinh.

Và ngày 15/2/2011, Luật sư Phan Thị Hương Thủy – Trưởng Văn phòng luật sư Hoàng Long đã tham gia tranh tụng tại phiên Tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại giữa Nguyên đơn (bà Nguyễn Thị Mai Hương, bà Nguyễn Thu Hà, ông Nguyễn Văn Nghiệp – thành viên Hội Đồng quản trị Công ty cổ phần đầu tư thiết bị và in) với Bị đơn là ông Đỗ Xuân Khải (Chủ tịch Hội đồng quản trị - Tổng giám đốc Công ty cổ phần đầu tư thiết bị và in) và Công ty cổ phần đầu tư thiết bị và in.

Dưới đây là bản quan điểm bảo vệ Nguyên đơn của Luật sư Phan Thị Hương Thủy:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập-Tự do-Hạnh phúc

---------------*-----------------

QUAN ĐIỂM LUẬT SƯ

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyên đơn trong vụ án KDTM

tranh chấp giữa các thành viên Công ty Cổ phần Đầu tư Thiết bị và In

(tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội)

Kính thưa HĐXX

Tôi là luật sư Phan Thị Hương Thủy thuộc VPLS Hoàng Long (Đoàn luật sư TP. Hà Nội) xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các Nguyên đơn cụ thể như sau:

I. Về hình thức:

Thứ nhất: Về thẩm quyền.

Căn cứ giấy chứng nhân đăng ký kinh doanh cùa Công ty CPĐTTB và in do Phòng đăng ký kinh doanh thành phố Hà nội cung cấp thì công ty có 5 thành viên trong đó 3 thành viên là nguyên đơn nắm giữ 12.684 cổ phần chiếm 25,468%.

Căn cứ nội dung đơn khởi kiện ngày 18/6/2010, đơn điều chỉnh đơn khởi kiện ngày 14/7/2010 của các Nguyên đơn : các ông bà Nguyễn Văn Nghiệp, Nguyễn Thị Mai Hương, Nguyễn Thị Hà – các thành viên HĐQT với 3 yêu cầu khởi kiện để xác định thẩm quyền của tòa án cụ thể:

-Yêu cầu kiện đối với ông Đỗ Xuân Khải –Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc đề nghị tòa án công nhận Biên bản và Nghị quyết của HĐQT họp ngày 27/11/2009 và 31/12/2009- là tranh chấp giữa các thành viên trong công ty với nhau liên quan đến hoạt động của công ty;

- Yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn là Công ty CPĐT Thiết bị và In xin hủy biên bản và Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Công ty CPĐT Thiết bị và In họp ngày 28/5/2010 –là tranh chấp giữa công ty với các thành viên Công ty liên quan đến hoạt động của công ty.

Cả hai quan hệ pháp luật này là các tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định tại khoản 3 điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005.

Thứ hai: Về việc Nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện.

Căn cứ Đơn khởi kiện ban đầu thì các Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn là ông Đỗ Xuân Khải chức vụ Giám đốc Công ty CPĐTTB và In với 3 yêu cầu: 1)Công nhận Biên bản và Nghị quyết HĐQT họp ngày 27/11/2010 về bãi miễm chức danh Chủ tịch HĐQT của ông Đỗ Xuân Khải và bầu là Nguyễn Thị Mai Hương là Chủ tịch HĐQT; 2) Công nhận Biên bản và Nghị quyết HĐQT họp ngày 31/12/2009 về bãi miễn chức danh Tổng giám đốc của ông Đỗ Xuân Khai và bầu ông Nguyễn Văn Nghiệp là Quyền Tổng giám đốc; 3) Xin hủy Biên bản và Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Công ty CPĐTTB và In ngày 28/5/2010 vì trình tự thủ tục triệu tập họp và ban hành quyết định trái Luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty.

Ngày 21/1/2011 Nguyên đơn gửi đơn thay đổi người tham gia tố tụng đối với yêu cầu thứ ba. Cụ thể thay đổi Bị đơn là Công ty CPĐTTB và in đối với yêu cầu xin hủy Biên bản và Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông ngày  28/5/2010. Tại phiên tòa hôm nay Nguyên đơn xin thay đổi yêu cầu khởi kiện trình bày rõ thay đổi  về người tham gia tố tụng cụ thể khởi kiện bị đơn là Công ty CPĐTTB và in đối với yêu cầu xin hủy biên bản và nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Công ty CPĐTTB và in ngày 28/5/2010.

Căn cứ khoản 1 điều 218 BLTTDS quy định quyền của Nguyên đơn về thay đổi yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa sơ thẩm và căn cứ điều 6 chương II của Nghị quyết số 02 ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán –TANDTC hướng dẫn cụ thể điều này quy định: HĐXX chấp nhận việc Nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa nếu yêu cầu mới không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện thể hiện trong đơn khởi kiện.

Đối chiếu yêu cầu của Nguyên đơn thể hiện trong đơn khởi kiện ban đầu và yêu cầu tại phiên tòa cho thấy Nguyên đơn chỉ thay đổi Bị đơn (là ông Đỗ Xuân Khải chức vụ Tổng giám đốc Công ty thành Công ty CPĐTTB và In),  còn vẫn giữ nguyên yêu cầu xin hủy biên bản và nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông Công ty CPĐTTB và In.

Việc thay đổi người tham gia tố tụng như trên phù hợp với Luật doanh nghiệp vì thời điểm tiến hành đại hội về mặt pháp lý ông Đỗ Xuân Khải vẫn là giám đốc Công ty –và cho đến nay ông Khải vẫn là giám đốc Công ty, đối với yêu cầu khởi kiện xin hủy biên bản và Nghị quyết đại hội đồng cổ đông thì phải khởi kiện đối với Công ty chứ không phải đối với cá nhân ông Khải, nên tôi đề nghị HĐXX chấp nhận vì không vượt quá phạm vi khởi kiện.

3. Về thời hiệu khởi kiện.

Căn cứ Đơn khởi kiện thì ngày 27/11/2009 và ngày 31/12/2009 HĐQT họp và thông qua biên bản và Nghị quyết. Ngày 18/6/2010 (sáu tháng sau) 3 trong số 5  thành viên khởi kiện xin tòa công nhận biên bản và nghị quyết của hai cuộc họp nói trên. Đối với yêu cầu thứ ba: theo đơn khởi kiện thì ngày 28/5/2010 Công ty CPĐTB và In tiến hành đại hội nhưng cả 3 Nguyên đơn chưa nhận được nhận biên bản họp Đại hội đồng cổ đông chỉ đến khi khởi kiện ra tòa thì các Nguyên đơn mới được bị đơn cung cấp. Như vậy thời điểm nhận được biên bản đại hội đồng cổ đông phải tính từ khi các nguyên đơn được sao chụp tại tòa . Căn cứ điều 107 Luật doanh nghiệp quy định trong thời 90 ngày nhận được biên bản họp Đại hội đồng cổ đông thì thành viên HĐQT có quyền yêu cầu tòa án xem xét ủy bỏ quyết định của đại hội đồng cổ đông trong trường hợp trình tự và thủ tục triệu tập họp đại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng quy định này và điều lệ và trình tự thr tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạm pháp luật hoặc điều lệ công ty.

Như vậy về thời hiệu thì đảm bảo quy định của Luật doanh nghiệp.

II- Về nội dung.

- Đối với quan hệ pháp luật: Yêu cầu công nhân Biên bản và Nghị quyết của 2 cuộc họp của HĐQT ngày 27/11/2009 và 31/12/2009.

Căn cứ vào các chứng cứ do nguyên đơn xuất trình và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa thì thấy có cơ sở để chấp nhân yêu cầu này cùa nguyên đơn. Tôi xin chứng minh như sau:

Đối với cuộc họp HĐQT ngày 27/11/2009: Do cả 3/5 thành viên HĐQT ký quyết định triệu tập họp là đúng quy định tại điều lệ.

-         Trình tự thủ tục triệu tập họp đã được triệu tập theo đúng quy định của điều lệ cụ thể như sau:

Điều 22.1.2 quy định HĐQT có thể họp định kỳ hoặc bất thường.

Điều 22.1.4.c quy định 3 thành viên có quyền đề nghị Chủ tịch HĐQT triệu tập họp.

Điều 22.1.5 quy định người đề nghị phải nêu rõ lý do

Tuy tại bản tự khai ông Khải khai là không nhận được giấy mời nhưng tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của ông Khải thừa nhận là nhân được giấy mời mà chỉ được biết quyết định tại bảng tin của Công ty, nhưng không đi dự vì triệu tập không đúng điều lệ (không có tài liệu để thảo luận kèm theo).

-         Thông qua quyết định của HĐQT:

Điều 22.1.8 quy định cuộc họp của HĐQT được thực hiện khi có ¾ tổng số thành viên HĐQT tham gia họp. Quy định này phù hợp với điều 112.8 Luật doanh nghiệp 2005 và điều 18.1 Nghị định 139 ngày 5/9/2007.

Biên bản họp HĐQT ngày 27/11/2009 được thông qua đúng quy định tại điều 22.2 của Điều lệ

Việc bầu Chủ tịch HĐQT mới thay thế Chủ tịch HĐQT không làm được việc là thuộc thẩm quyền của HĐQT. Đối chiếu vào quy định cùa điều lệ Công ty CPĐTTB và in thì thấy: điều 21.4 điều lệ 2002 và điều lệ 2007 quy định “HĐQT bầu Chủ tịch HĐQT”; Điều 21.3 điều lệ 2007 quy định ‘trong trường hợp Chủ tịch HĐQT không làm được việc thì các thành viên còn lại bầu 1 người trong số các thành viên tạm thời giữ chức Chủ tịch HĐQT”.

Vì vậy, yêu cầu kiện của Nguyên đơn đề nghị tòa án công nhận Biên bản và Nghị quyết của Hội đồng quản trị 27/11/2009 về  họp bầu chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị là có căn cứ đề nghị HĐXX chấp nhận.

Đối với cuộc họp ngày 31/12/2009: Do bà Nguyễn Thị Mai Hương với chức vụ Chủ tịch HĐQT được bầu theo đúng quy định cùa Điều lệ ký quyết định triệu tập họp là đúng quy định của Điều lệ. (như đã viện dẫn)

Đối chiếu vào quy định cùa điều lệ Công ty CPĐTTB và in thì thấy: điều 21.4 điều lệ 2002 và mục h điều 20.1.2 điều lệ 2007 quy định thẩm quyền của HĐQT “bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng chấm dứt hợp đồng với Tổng giám đốc”.

Các căn cứ để bãi miễn chức danh Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc của ông Khải là vì ông Khải có các hành vi vi phạm điều lệ công ty cụ thể vi phạm về quản lý, điều hành, về chi tiêu tài chính, thực hiện pháp luật về lao động đối với người lao động của ông Đỗ Xuân Khải thì đó là căn cứ để các thành viên HĐQT quyết định bãi miễn chức danh chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc công ty theo quy định tại điều lệ (điều 22.2; 21.2.b; 22.1.4; 20.1.1.; 20.1.3; ). Nhất là các hành vi sai phạm trong lĩnh vực tài chính, chi tiêu tiền không được sự đồng ý của HĐQT có mục đích tư lợi mà do chính ông Khải thừa nhân tại biên bản làm việc với công an ngày 5/1/2011 không thông qua HĐQT là trái quy định Điều 20.1 .h Điều lệ quy định HĐQT là cơ quan quản lý Công ty , quyết định mọi lợi ích cho các thành viên của Công ty.

Ông Khải còn chiếm giữ con dấu của Công ty (là trái với điều 31 Luật doanh nghiệp) và toàn bộ giấy tờ pháp nhân của Công ty để tự ý đóng dấu vào các văn bản, hợp đồng giao dịch với danh nghĩa công ty nhưng thực chất là danh nghĩa cá nhân của ông Khải. Điều này là không chấp nhận được và đã làm cho công ty không thể hoạt động như điều lệ và Điều 36 Luật doanh nghiệp. Đó là lý do mà các Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết để tạo điều kiện cho công ty ổn định hoạt động bình thường.

Vì vậy tôi đề nghị HĐXX chấp nhân yêu cầu của Nguyên đơn công nhận Biên bản và Nghị quyết của  cuộc họp ngày 31/12/2009 để giúp công ty ổn định tiếp tục hoạt động.

-         Đối với quan hệ pháp luật yêu cầu xin hủy bỏ Biên bản và Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông ngày 12/5/2006.

Căn cứ  điều 107 Luật doanh nghiệp quy định quyết định của đại hội đồng cổ đông bị hủy bỏ trong 2 trường hợp: 1) nếu trình tự và thủ tục triệu tập họp không đúng quy định cùa điều lệ (do HĐQT triệu tập theo quy định tại điều 16.1) theo khoàn 1 điều này  và 2) theo khoản 2 điều 107 tức là trình tự và thủ tục ra quyết định vi phạm điều lệ (không đảm bảo tỷ lệ thông qua).

Đối chiếu vào các chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm vấn tại phiên tòa cho thấy có cơ sở để chấp nhân yêu cầu của nguyên đơn vì:

- Theo quy định tại điều 16.1 điều lệ thì đại hội thường niên do HĐQT triệu tập. Nhưng trên thực tế chỉ có ông Khải ký giấy triệu tập họp chứ không phải quyết định của HĐQT. Điều 22.1.8 điều lệ 2007 và điều 18 Nghị định 139 ngày 5/9/2009 của Chính phủ quy định cuộc họp HĐQT phải có ¾ thành viên có mặt họp và thông qua các công việc tiến hành đại hội cổ đông . Nhưng chỉ có 2/5 thành viên dự họp (là 2 bố con của ông Khải) mà ông Khải vẫn ký giấy triệu tập họp . Đó là căn cứ để chứng minh trình tự thủ tục triệu tập họp không đúng .

- Mặt khác căn cứ quy định tại điều lệ và Luật doanh nghiệp thì quyết định của HĐQT có hiệu lực khi được thông qua với tỷ lệ 65% nhưng căn cứ vào kết quả kiểm phiếu thì chưa đạt 60% do 3 thành viên của công ty (3 nguyen đơn ) không biểu quyết trong khi tỷ lệ cổ đông dự họp là 96,83%.

- Đối với yêu cầu phản bác của Bị đơn đối với yêu cầu của Nguyên đơn:

Thì không có chứng cứ để chứng minh trong khi ông Khải thừa nhân có những vi phạm tài chính thể hiện tại biên bản làm việc với cơ quan công an ngày 3/1/2011. Căn cứ khoản 2 Điều 80 BLTTDS quy định những tình tiết không phải chứng minh là sự thừa nhân của 1 bên

Đề nghị cụ thể của luật sư:

Căn cứ vào phân tích nêu trên tôi đề nghị HĐXX chấp nhân yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn tạo điều kiện cho Công ty Cổ phần Đầu tư Tthiết bị và In đi vào hoạt động ổn định theo quy định của Luật doanh nghiệp và điều lệ.

Xin trân trọng cảm ơn.

Hà Nội, ngày 15 tháng 02 năm 2011.

Luật sư

Phan Thị Hương Thủy


Và vào 15h chiều ngày 16/2/2011 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã có quyết định cuối cùng như sau:

“Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mai Hương, ông Nguyễn Văn Nghiệp và bà Nguyễn Thu Hà đối với ông Đỗ Xuân Khải và Công ty cổ phần đầu tư thiết bị và in; cụ thể như sau:

1- Công nhận Biên bản và Quyết định của Hội đồng quản trị ngày 27/11/2009 về việc bãi miễn chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị của ông Đỗ Xuân Khải và bổ nhiệm bà Nguyễn Thị Mai Hương là Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty cổ phần đầu tư thiết bị và in đối với ông Đỗ Xuân Khải.

2- Công nhận Biên bản và Quyết định của Hội đồng quản trị ngày 31/12/2009 về việc miễn nhiệm, cách chức và chấm dứt hợp đồng với chức danh Tổng giám đốc Công ty cổ phần đầu tư thiết bị và in đối với ông Đỗ Xuân Khải.

3-  Hủy Nghị quyết đại hội đồng cổ đông ngày 28/5/2010 của Công ty cổ phần đầu tư thiết bị và in.

4-  Bà Nguyễn Thị Mai Hương, ông Nguyễn Văn Nghiệp và bà Nguyễn Thu Hà có quyền đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về đăng ký kinh doanh để đề nghị thay đổi đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.

5-   Bác các yêu cầu khác của các đương sự.

6-   Về án phí:

- Ông Đỗ Xuân Khải phải chịu 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

- Công ty cổ phần đầu tư thiết bị và in phải chịu 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) án phí kính doanh thương mại sơ thẩm.

- Hoàn lại bà Nguyễn Thị Mai Hương, ông Nguyễn Văn Nghiệp và bà Nguyễn Thu Hà 1.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số 02399 ngày 28/6/2010 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội”.